tháng 6 2016 | GIÁO XỨ LỘC THỦY

tháng 6 2016

12 Thánh tông đồ Audio suy niệm Audio truyện Công giáo Âm nhạc Bài Giảng mp3 Bạn có biết bạn trẻ xa nhà Bảo vệ sự sống Blog tips Ca kịch công giáo Các bài giáo lý của ĐTC Phanxicô Các hội đoàn Các mục chính Các Thánh Các thánh địa Công giáo Các thánh khác Các Tuần Cửu Nhật Kính Đức Mẹ Các vấn nạn xã hội Cắm hoa nghệ thuật Câu chuyện Giáng Sinh Châm ngôn công giáo Chiêm ngắm Chúa Chuyện phiếm đạo đời Chuyện về Giáo Lý và Giáo Dục Công Giáo đó đây Cửu Nhật Kinh Nguyện Danh Danh bạ website các giáo xứ - giáo họ việt nam Danh bạ website công giáo Di sản thế giới Du Lịch Đẹp + Để sống đạo hôm nay Đôi nét về Giáo xứ Đời sống cầu nguyện Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Đức Mẹ Lama Đức Thánh Cha phanxico Đức Tin và Khoa Học Đường Hy Vọng Gia đình Giải đáp thắc mắc cuộc đời Giao hat Vang Mai Giáo hạt Vàng Mai Giáo Hội Đông Phương Giáo lý - dân ca Giáo lý - kinh thánh Giáo sử Giáo xứ Media góc học tập Góc khám phá Góc nghệ thuật Góc thư giãn Góp nhặt Hạt Giống Lời Chúa Hình ảnh cổ xưa Hình ảnh Giáo xứ Lộc Thủy học tiếng anh Hướng dẫn sử dụng webblog Kết nối websites Kiến thức phổ thông Kính Đức Mẹ Kinh thánh tiếng anh Lẽ sống Lịch sử các Dòng tu Lịch sử Giáo Hội Việt Nam Lịch sử hình thành Giáo xứ Lộc Thủy Lòng Thương xót Chúa Lộc Thủy Lời Chúa qua bài hát Lời chúa theo chủ đề Mùa Vọng - Advent Năm thánh Lòng Thương Xót Nghe và suy gẫm Nghệ thuật Công Giáo Nghệ thuật sống Ơn gọi-tận hiến Phim công giáo Quỳnh lưu Radio Công Giáo Sách Công giáo sách tháng đức bà Sắc màu cuộc sống Sổ tay sinh hoạt suy gẫm Suy gẫm và Cầu nguyện Suy niệm Lời Chúa Suy niệm Lời Chúa mùa Phục Sinh Suy niệm Lời Chúa mùa TN A Suy niệm Lời Chúa năm A Suy niệm mùa chay Sức khỏe - ẩm thực Tài liệu Công Giáo tổng hợp Tài liệu dạy Giáo Lý Tài liệu Tuần Thánh Thánh ca Thánh ca cầu nguyện Thánh Ca Hoàng Diệp Thánh Mẫu học Thánh Mẫu La vang Thế giới Công Giáo Thơ - Truyện Công Giáo Thơ Công Giáo Thơ và cuộc sống Thủ thuật blog Thủ thuật facebook Thủ thuật google + Thư Viện Công Giáo Tiếng anh qua Lời Chúa Tiêu điểm Tìm hiểu phụng vụ Tin Công Giáo Tin Giáo xứ Tin tức Giáo xứ Lộc Thủy Tin Việt Nam và Thế Giới Tổ chức kỳ thi Giáo lý Tông huấn Giáo hội Công giáo Trang Trí Giáng Sinh Trắc nghiệm Giáo lý Trắc nghiệm Kinh Thánh Trắc nghiệm năm đức tin Truyện Công Giáo Truyện về Mẹ Tư liệu Giáo hội Công giáo việt nam Tư liệu Giáo phận Vinh Tư liệu Giáo xứ Lộc Thủy Từ vựng công giáo Anh-việt Tv Công giáo TVs và Radios khắp nơi Vấn đáp đức tin công giáo Videos Đặc Sắc Vietnamese English Prayers Vinh Quang Đức Maria Website Công Giáo bổ ích


Pasteur và Chúa

Thuyết Sáng tạo tin vào sự sáng tạo của Chúa. Các nhà Tiến hóa luận phủ nhận Thuyết Sáng tạo và lý luận rằng sự sống nẩy sinh tự phát từ những phân tử không sống rồi tiến hóa thành sinh vật ngày nay. Nhưng những thí nghiệm nổi tiếng của Pasteur trong thế kỷ 19 đã giáng một đòn phủ đầu vào lý thuyết sinh vật hình thành tự phát của tiến hóa luận và do đó tự động ủng hộ Thuyết Sáng tạo. Đó là một trong những câu chuyện thú vị nhất trong lịch sử khoa học. 



Pasteur và Chúa, Thuyết Sáng tạo
Phải nói ngay rằng công lao của Pasteur lớn đến nỗi bao nhiêu lời ca ngợi dành cho ông cũng không đủ. Trang mạng “Creation-Evolution Headlines” viết về ông với những lời mở đầu hùng hồn sau đây:



Nhà khoa học nào đóng góp nhiều nhất vào việc cứu sống con người? Ai được ca ngợi là nhà sinh học vĩ đại nhất của mọi thời đại? Ai đã tạo ra cuộc cách mạng trong y học và sức khỏe công cộng? Đó là Louis Pasteur – một người Công giáo tin vào Thuyết Sáng tạo. Để dẹp bỏ ý nghĩ cho rằng đức tin vào Chúa bất lợi cho khoa học, bạn hãy lắng nghe tuyên bố của nhà khoa học vĩ đại này: “Càng nghiên cứu tự nhiên tôi càng sững sờ ngạc nhiên trước công trình của Đấng Sáng Tạo” 

Trang Access Excellence viết những lời tương tự: Nếu phải lựa chọn một danh sách những ân nhân vĩ đại nhất của nhân loại, Louis Pasteur phải đứng đầu danh sách đó.

Nói theo cách nói của người Việt, công lao của Pasteur to lớn như trời biển. Liệt kê các khám phá của ông, ta sẽ có một danh sách gạch đầu dòng kín đặc một trang giấy, toàn những khám phá vĩ đại, với tầm vóc của những nguyên lý bao trùm lên khoa học và triết học, đồng thời có ý nghĩa thiết thực đến mức có thể nói rằng tất cả chúng ta đều đã mắc nợ Pasteur rất nhiều.

Thật vậy, không thể tưởng tượng nổi xã hội hiện đại sẽ ra sao nếu không có những hiểu biết về vi trùng, về tẩy trùng, về tiêm chủng, miễn dịch,… Không có số liệu thống kê trực tiếp để chỉ ra rằng những thành tựu khoa học của Pasteur từ giữa thế kỷ 19 tới nay đã cứu sống bao nhiêu người, nhưng không ai nghi ngờ rằng những thành tựu ấy là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự tăng dân số ở mức nhảy vọt trong thế kỷ 20 cho tới bây giờ, nâng tuổi thọ trung bình của con người từ 55 lên tới 70 như hiện nay… Nhưng, trong khi thụ hưởng những thành quả thực tiễn do những công trình khoa học của Pasteur mang lại, nhiều người trong chúng ta chẳng hề hay biết gì về ý nghĩa trọng đại của những công trình ấy, thậm chí chẳng cần biết Pasteur là ai. Vì thế, bài viết này xin được xem như một cây nến thắp lên để tưởng nhớ vị ân nhân vĩ đại của chúng ta, nhân dịp kỷ niệm 120 năm ngày mất của ông sắp tới (28/09/1895 – 28/09/2015).

Louis Pasteur sinh năm 1822 tại Dole, một thành phố thuộc miền đông nước Pháp, là con trai thứ ba trong một gia đình Công giáo làm nghề thuộc da. Bố là Jean-Joseph Pasteur và mẹ là Jeanne-Etiennette Roqui. Mặc dù không có nhiều học vấn nhưng hai ông bà hết lòng chăm lo cho con cái sao cho chúng được hưởng một nền giáo dục đầy đủ hơn mình.

Năm 1827, gia đình chuyển tới Arbois, nơi Louis bắt đầu cắp sách tới trường. Từ đó đến lúc hoàn thành chương trình trung học, Louis chỉ là một học trò trung bình, không có gì xuất sắc nổi trội. Cậu chỉ mê câu cá và vẽ tranh. Tranh vẽ của Louis ở tuổi thiếu niên cho thấy cậu có tiềm năng trở thành một họa sĩ vẽ chân dung giỏi sau này. Những tranh cậu vẽ bạn bè ở trường trung học được đưa vào ít nhất hai bản liệt kê các họa sĩ thế kỷ 19. Hình dưới đây là chân dung bố của Pasteur do Louis vẽ năm 15 tuổi.

Nhưng bố của Louis không muốn cậu trở thành họa sĩ, và bản thân Louis cũng bắt đầu quan tâm nhiều đến môn Hóa và các môn khoa học khác. Mong muốn cao nhất của ông bố là con trai mình sẽ hoàn thành chương trình giáo dục tại các trường địa phương và trở thành giáo sư trung học tại Arbois. Nhưng ông hiệu trưởng nhận thấy Louis có nhiều tiềm năng phát triển nên đã cố gắng thuyết phục cả hai bố con rằng Louis nên thi vào đại học danh tiếng École Normale Supérieure ở Paris [1].

Đây là đại học uy tín nhất nước Pháp chuyên đào tạo ra những nhà nghiên cứu khoa học và văn chương giảng dạy đại học. Năm 1844 Pasteur thi đỗ vào đại học đó, và ngay năm sau đã lấy được bằng cử nhân khoa học (licencié ès sciences). Năm 1846, ông được bổ nhiệm làm giáo sư vật lý tại Collège de Tournon tại Ardèche, nhưng Antoine Jérome Balard (một trong những người khám phá ra nguyên tố bromine) muốn ông quay lại École Normale Supérieure để làm trợ giảng môn Hóa. Ông đã nghe theo tiếng gọi của Balard, cộng tác với Balard trong phòng thí nghiệm tại École Normale Supérieure, bắt tay vào nghiên cứu một đề tài thuộc lĩnh vực tinh thể học.

Chính tại đây, Pasteur đã bước vào thế giới khoa học, để từ đó về sau liên tiếp tạo ra một loạt công trình khoa học để đời, với số lượng khó có thể tưởng tượng một đời người có thể làm nổi, và với chất lượng của những nguyên lý bao trùm vũ trụ và bao trùm đời sống nhân loại.

Công trình đầu tiên thực hiện trong phòng thí nghiệm của Balard năm 1848 ít được xã hội bên ngoài biết đến so với các công trình khác của ông sau này, nhưng lại được đánh giá là cống hiến vĩ đại nhất của Pasteur đối với khoa học. Đó là công trình về tính bất đối xứng của những phân tử hữu cơ liên quan tới sự sống.

Định luật thứ nhất: Tính bất đối xứng của sự sống 

Trong cuốn “On Giants’s Shoulders” (Trên vai những người khổng lồ), Melvyn Bragg cho biết người ta đã tiến hành một cuộc thăm dò dư luận ở Pháp xem ai là người Pháp nổi tiếng nhất. Đối tượng được hỏi toàn là trẻ em, vì trẻ em là những người trung thực và vô tư nhất. 70% trả lời đó là Louis Pasteur. Đọc đến đó, tôi nghĩ: nếu hỏi tiếp Pasteur là ai thì sao nhỉ? Có lẽ đa số, kể cả người lớn, đều trả lời ngay rằng ông là cha đẻ của khoa học về vi trùng, nhà sinh học vĩ đại nhất,… nhưng ít ai ngờ rằng Pasteur trước tiên là một nhà hóa học, và công trình khoa học đầu tiên của ông là một công trình để đời về hóa học tinh thể.

Thật vậy, tại phòng thí nghiệm của Balard, Pasteur bắt tay vào nghiên cứu tinh thể của một loại hợp chất hữu cơ chiết xuất từ nho, được gọi là acid tartaric.

Trước đó, nhà hóa học xuất sắc người Pháp là Jean Baptiste Biot đã khám phá ra một hiện tượng thú vị của hợp chất hữu cơ này:dung dịch acid tartaric làm quay mặt phẳng của chùm ánh sáng phân cực đi qua nó.

Chẳng bao lâu sau, người ta tổng hợp được acid tartaric tại phòng thí nghiệm, với thành phần hóa học giống hệt acid tartaric chiết xuất từ sinh vật trong tự nhiên. Nhưng điều kỳ lạ và vô cùng khó hiểu là acid tartaric tổng hợp không hề tác động tới chùm ánh sáng phân cực đi qua nó.

Câu hỏi lớn đặt ra là tại sao hai hợp chất hữu cơ hoàn toàn giống nhau về thành phần hóa học lại có ứng xử hoàn toàn khác nhau đối với chùm ánh sáng đi qua nó?

Pasteur nghi ngờ sự “giống nhau hoàn toàn” đó. Theo ông, nếu tác động tới ánh sáng khác nhau, ắt 2 hợp chất đó phải có gì đó khác nhau. Ông ngờ rằng cấu trúc nội tại của 2 hợp chất này phải khác nhau và sự khác biệt ấy phải lộ ra dưới dạng tinh thể, mặc dù thành phần hóa học hoàn toàn như nhau.

Đó là sự mách bảo vô giá của trực giác. Mách bảo ấy hối thúc ông lao vào tìm kiếm sự khác biệt về cấu trúc tinh thể của 2 loại hợp chất hữu cơ “giống hệt nhau”. Cuối cùng ông đã phát hiện ra cái ông muốn tìm: trong khi các tinh thể của acid tartaric tự nhiên hoàn toàn giống nhau, tinh thể của acid tartaric tổng hợp bao gồm 2 loại, mặc dù thoạt nhìn rất giống nhau, nhưng thực ra chúng khác nhau – tinh thể loại này là ảnh gương của tinh thể loại kia, tương tự như bàn tay trái là ảnh gương của bàn tay phải; hơn nữa, 2 loại tinh thể đó có số lượng tương đương với nhau, tỷ lệ 50-50.

Với một chiếc kim phân tách và một kính hiển vi, Pasteur đã kiên trì tách 2 loại tinh thể đó riêng rẽ ra từng bên, rồi tiến hành thí nghiệm ánh sáng đối với từng loại. Kết quả thật kỳ diệu: dung dịch của mỗi loại tinh thể riêng rẽ này đều làm quay mặt phẳng ánh sáng phân cực, nhưng theo hai chiều đối nghịch nhau, một loại làm mặt phẳng ánh sáng quay trái, loại kia làm quay phải. Nói một cách hình ảnh, acid tartaric tổng hợp bao gồm 2 loại phân tử đối xứng gương với nhau (loại này là ảnh gương của loại kia), nhưng một loại “thuận tay trái”, một loại “thuận tay phải”, và vì chúng có số lượng tương đương với nhau nên khi cùng tồn tại trong hợp chất acid tartaric tổng hợp, tác động đối với ánh sáng phân cực bị triệt tiêu – acid tartaric tổng hợp không tác động đối với ánh sáng phân cực.

Tóm lại, acid tartaric tự nhiên (chiết xuất từ nho) chỉ bao gồm một loại tinh thể thuận tay trái, có khả năng tác động đến ánh sáng phân cực đi qua nó, trong khi acid tartaric tổng hợp bao gồm 2 loại tinh thể đối xứng gương với nhau, không có tác động đối với ánh sáng phân cực.

Từ đó Pasteur khái quát hóa thành một định luật vô cùng quan trọng: hợp chất hữu cơ chiết xuất từ sinh vật (living things) chỉ chứa một loại phân tử thuận tay trái, tức là bất đối xứng (asymmetry), trong khi hợp chất hữu cơ tổng hợp, tức hợp chất hữu cơ không sống (non-living things), chứa 2 loại phân tử đối xứng gương với nhau. Tổng quát hóa điều này, ông vạch ra ranh giới giữa sự sống với thế giới không sống là ở tính bất đối xứng: tính bất đối xứng là đặc trưng của sự sống!

Nhiều nhà lịch sử khoa học sau này nhận định đó là đóng góp sâu sắc nhất và độc đáo nhất của Pasteur cho khoa học, và là khám phá khoa học vĩ đại nhất của ông!

Về vấn đề này, bài báo “Louis Pasteur” trên trang mạng Creation-Evolution nêu lên câu hỏi lớn:

Tại sao sự sống lại bất đối xứng? Tại sao sự sống chỉ “thuận tay trái”, trong khi xác suất để thuận tay trái hoặc tay phải là hoàn toàn như nhau? 

Cho đến tận hôm nay vẫn không có ai trả lời được câu hỏi này – một thách đố vĩ đại đối với khoa học!

Thật vậy, xác suất để một chuỗi acid amin chỉ xuất hiện một tay là vô cùng nhỏ – nhỏ đến mức coi như bằng không, tương tự như xác suất để gieo một đồng xu 1000 lần sao cho cả 1000 lần đều sấp (hoặc đều ngửa). Điều này nói lên rằng ắt phải có một chương trình thiết kế thông minh để sự sống phải như thế! Nói cách khác, ắt phải có một sự can thiệp của Đấng Sáng Tạo!

Vâng, những hiện tượng có xác suất gần như bằng 0, tức là hầu như không thể xẩy ra nhưng vẫn xảy ra chính là dấu hiệu giúp chúng ta nhận biết có sự can thiệp của Chúa!

Cần nhấn mạnh ngay rằng vấn đề bất đối xứng nói trên không chỉ có ý nghĩa triết học như chúng ta vừa thấy, mà còn có ý nghĩa rất thiết thực trong đời sống.

Thật vậy, chúng ta vừa nói rằng đặc trưng của sự sống là những phân tử bất đối xứng có khả năng tác động tới ánh sáng (làm quay mặt phẳng ánh sáng phân cực). Vậy nếu một hợp chất hữu cơ biểu lộ khả năng tác động tới ánh sáng thì đó chính là dấu hiệu có sự sống. Pasteur đã áp dụng nguyên lý đó để tìm ra nguyên nhân lên men rượu, và từ đó xây dựng nên một lý thuyết vĩ đại khác, đó là lý thuyết về mầm bệnh (theory of germ), hay còn gọi là lý thuyết về vi trùng.

Khoảng giữa thế kỷ 19, ngành công nghiệp và thị trường rượu của Pháp lâm vào khủng hoảng trầm trọng vì tình trạng rượu lên men, bị chua, đắng, mất hương vị, gây nên thiệt hại không biết bao nhiêu mà kể. Các nhà khoa học đều cho rằng đó là quá trình biến đổi hóa học của rượu, và không ai tìm ra cách cứu chữa. Tình hình nghiêm trọng đến nỗi đích thân hoàng đế Pháp đương thời là Napoléon III phải nhờ Pasteur cứu nguy.

Sau khi tiến hành những thí nghiệm cẩn thận, Pasteur khám phá ra rằng dung dịch rượu lên men chứa đựng những hợp chất có khả năng tác động tới ánh sáng, tức là chứa đựng những phân tử bất đối xứng. Theo định luật về tính bất đối xứng do chính ông tìm ra, Pasteur cho rằng rượu ắt phải chứa đựng vi sinh vật. Đó là thời điểm đánh dấu sự ra đời của lý thuyết về vi trùng, rằng trong không khí vốn sẵn có vi trùng, và vi trùng đó tiếp xúc với rượu, gây ra sự lên men làm hỏng rượu. Một loạt thí nghiệm lập tức được tiến hành để kiểm chứng giả thuyết của Pasteur. Kết quả xác nhận tiên đoán ấy hoàn toàn đúng.

Chưa hết, Pasteur còn chỉ ra phương pháp bảo vệ rượu: chỉ cần đun nóng rượu tới khoảng 55 – 60 độ, vi khuẩn bị tiêu diệt, nhưng rượu vẫn giữ nguyên hương vị, rồi đóng chai hoặc đóng thùng đảm bảo kín, rượu sẽ giữ được rất lâu không hỏng. Ngày nay chúng ta được uống rượu ngon, đó là nhờ công ơn của Pasteur, trong đó định luật về tính bất đối xứng của sự sống đóng vai trò nền tảng! Kết thúc cuộc khủng hoảng rượu, Pasteur có một tuyên bố bất hủ: “Một chai rượu chứa đựng nhiều triết học hơn tất cả các sách vở trên thế giới!”.

Trong những năm cuối đời, Pasteur thể hiện một nỗi hối tiếc vì đã bỏ dở những nghiên cứu lý thuyết về tinh thể học, mà theo ông, có thể dẫn tới việc khám phá ra một lực nền tảng bất đối xứng trong vũ trụ, từ đó sẽ vén lên bức màn bí mật của sự sống. Ông nói: “Vũ trụ là bất đối xứng và tôi bị thuyết phục rằng sự sống, như chúng ta đã biết, là kết quả trực tiếp của tính bất đối xứng của vũ trụ hoặc hệ quả gián tiếp của nó. Vũ trụ là bất đối xứng”.

Xem thế đủ thấy khát vọng hiểu biết sự sống của Pasteur lớn đến nhường nào. Dường như định luật về tính bất đối xứng của sự sống đối với ông vẫn chưa đủ. Ông còn muốn biết sự sống hình thành từ đâu. Phải chăng sự sống hình thành một cách ngẫu nhiên do sự kết hợp tình cờ của các nguyên tử trong tự nhiên? Câu hỏi lớn đó dằn vặt ông, dẫn ông tới một khám phá vĩ đại khác: định luật sự sống chỉ có thể ra đời từ sự sống!

Định luật thứ hai: sự sống chỉ ra đời từ sự sống 

Sau định luật về tính bất đối xứng của sự sống, Pasteur đã giáng cho học thuyết tiến hóa một đòn chết người thứ hai, đó là định luật của ông về sự hình thành sự sống (biogenesis), khẳng định rằng chỉ có sự sống mới đẻ ra sự sống.

Nguồn gốc sự sống vốn là một trong những câu hỏi triết học sâu xa nhất của nhân loại.

Ít nhất ta có thể biết chắc chắn rằng ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, thậm chí có thể trước đó rất lâu, từ dân thường cho tới các triết gia đều tin rằng sự sống có thể nẩy sinh từ các chất liệu không sống. Con người từng ngây thơ tưởng tượng rằng các sinh vật nhỏ li ti như giòi, bọ, ruồi,… dường như xuất hiện một cách thần kỳ từ hư không. Tưởng tượng này xuất phát từ những quan sát thông thường: nhìn vào một góc nào đó, một xó xỉnh nào đó, một chỗ ao tù nước đọng nào đó, một xác động vật đã chết và thối rữa nào đó, … ban đầu chẳng hề thấy một sinh vật nào ở đó, nhưng chẳng bao lâu sau bỗng thấy lúc nhúc giòi bọ xuất hiện. Rõ ràng là sinh vật xuất hiện một cách “tự phát”! Nhiều người có thể sẽ rất ngạc nhiên khi biết một nhà đại thông thái cổ Hy Lạp như Aristotle cũng đã từng cho rằng rệp sinh ra từ những hạt sương rơi trên cây cối, bọ chét sinh ra từ những vật thối rữa, chuột sinh ra từ rơm rạ,… Chúng ta có thể thấy buồn cười trước những suy nghĩ ngây thơ đó, ấy là vì chúng ta đang sống ở thế kỷ 21.

Vâng, xin nhấn mạnh rằng trong thời đại ngày nay, câu chuyện hoang đường về sự ra đời của sự sống một cách tự phát và ngẫu nhiên bị coi là ngu xuẩn, nhưng đừng quên rằng nó đã từng là một ý nghĩ phổ biến trong một giai đoạn lịch sử kéo dài ít nhất hơn 2000 năm, kể từ thời Aristotle mãi cho đến giữa thế kỷ 19, tức là tới thời đại của Pasteur. Đến lúc ấy người ta vẫn tin rằng vi sinh vật nẩy sinh từ vật chất không sống; một mặt, chúng có vẻ sinh sôi nảy nở nhanh chóng ngay cả trong chất lỏng được chưng cất; mặt khác, có rất nhiều biến thể, chúng có vẻ hầu như hỗn độn và không thể phân loại được. Rốt cuộc, thật dễ dàng để tưởng tượng chúng xuất hiện mà không cần có một tác động nào cả; có thể có một “lực sống” (vital force) nào đó đã làm cho chúng hình thành. Mặc dù cũng có một số người phản đối, nhưng những thí nghiệm trên cả hai phía trong cuộc tranh luận này đều mang lại kết quả không rõ ràng.

Thiết tưởng sẽ không thừa khi lưu ý rằng đến giữa thế kỷ 19, các khoa học khác như toán học, vật lý học, thiên văn,… đều đã phát triển tới trình độ rất cao. Vậy mà hiểu biết về sự sống còn ngây thơ như thế (!). Nói như vậy để thấy rõ công lao khai sáng của Pasteur về bí mật của sự sống lớn đến chừng nào.

Đúng vào lúc cuộc tranh cãi về sự hình thành sự sống rơi vào tình trạng nhập nhằng thì Pasteur quyết định nhập cuộc, bất chấp lời khuyên của các đồng nghiệp rằng sẽ lãng phí thời gian; nhưng một lần nữa, niềm đam mê khám phá và trực giác thiên tài đã dẫn ông tới một thí nghiệm vô cùng đơn giản những rất tài tình, làm sáng tỏ sự thât. Ông đã công bố thí nghiệm của mình với một tuyên bố đắc thắng: “Không bao giờ học thuyết sinh vật hình thành tự phát có thể hồi phục lại được nữa từ cú đòn chết người mà thí nghiệm đơn giản này đã giáng lên nó”.

Thí nghiệm đó đến nay vẫn được xem như một mô hình mẫu mực của phương pháp khoa học chính xác.

Trước hết, quan sát thực tế cho thấy một lọ kín tuyệt đối đựng nước dinh dưỡng (nước thịt đã luộc chín) sẽ không tạo ra sự sống. Nhưng nếu lọ mở, nước dinh dưỡng sẽ tiếp xúc với không khí, sinh vật sẽ hình thành.

Sinh vật ấy từ đâu mà ra? Đối thủ của Pasteur nghĩ rằng đó là những sinh vật hình thành một cách tự phát từ không khí – họ phỏng đoán rằng trong không khí có chứa một thành phần tạo ra sự sống (vital ingredient). Nhưng Pasteur bác bỏ quan điểm đó, ông cho rằng vi khuẩn bám trên bụi lẫn trong không khí là nguồn gốc tạo ra các sinh vật trong bình, thay vì bản thân không khí.

Để chứng minh điều đó, ông phải tạo ra một môi trường mở đối với không khí, nhưng ngăn chặn được vi khuẩn – không cho vi khuẩn bám trên bụi trong không khí có thể xâm nhập được vào bên trong bình để tiếp xúc với nước dinh dưỡng . Từ đó sẽ kiểm tra không khí trong bình có thể tạo ra sự sống được hay không.

Ý tưởng đó dẫn ông đến thí nghiệm nổi tiếng – thí nghiệm với chiếc bình thủy tinh có cổ cong giống cổ con thiên nga.

Ông đổ một chất nước dinh dưỡng vào một chiếc bình có cổ thiên nga – cổ vòi cong hình chữ S nằm ngang để mở với không khí, tức là không khí bên ngoài có thể lọt vào bên trong bình, nhưng vi khuẩn không vào được, vì chúng bị kẹt lại cùng với bụi tại các đoạn uốn cong. Trước hết, ông đun sôi nước dinh dưỡng trong bình để đảm bảo trong bình lúc đầu không hề có sinh vật, rồi đợi một thời gian xem sinh vật có xuất hiện trong bình hay không. Nếu có thì nước dinh dưỡng sẽ bị biến dạng, thay đổi mầu sắc. Kết quả thật mỹ mãn: sau một thời gian chờ đợi đủ lâu, nước dinh dưỡng không hề thay đổi mầu sắc, không hề có sinh vật mới xuất hiện trong bình! Pasteur đã chỉ cho các nhà phê bình và những người hoài nghi rằng trong trường hợp này, nước dinh dưỡng trong bình cổ cong vẫn vô trùng (không có sự sống trong đó). Trong khi đó, bình thủy tinh bình thường, tức là bình không có cổ thiên nga, xuất hiện rất nhiều vi sinh vật tụ tập. Điều này chứng tỏ giả thiết tồn tại một thành phần tạo ra sự sống trong không khí chỉ là một ảo tưởng!

Tuy nhiên, một số kẻ ngoan cố vẫn chống đối. Họ cho rằng, nếu không khí bị nhiễm vi khuẩn, nó sẽ tạo thành một lớp sương mù dày đặc (ý nói không thể có vi khuẩn trong không khí). Pasteur đã đáp trả bằng một loạt thí nghiệm trong các môi trường khác nhau, trong thành phố, trong nước, và thậm chí lên tận núi cao Mont Blanc (nơi ông đã phải chịu đựng một đêm lạnh trong một nhà trọ khốn khổ). Các bình trong thành phố trở nên u ám với vi khuẩn, nhưng tất cả những bình trên núi cao là vô trùng. Ông kết luận rằng các hạt bụi chứa vi khuẩn thay đổi theo độ cao và tùy theo mức độ ô nhiễm môi trường, nhưng các thí nghiệm đều cho thấy rõ ràng là vi khuẩn bám trên bụi trong không khí là nguồn gốc tạo ra sinh vật trong bình, thay vì bản thân không khí. Ông công khai thách thức các đối thủ của mình bằng cách tiến hành các thí nghiệm nghiêm ngặt loại trừ bụi trong không khí, và đưa họ tới chỗ không thể chống đỡ được nữa.

Cuối cùng Viện Hàn lâm Khoa học Pháp đã đánh giá các thí nghiệm của Pasteur là “sự chính xác hoàn hảo nhất”, và đã đến lúc ngay cả những kẻ chỉ trích ông cay đắng nhất và những người ủng hộ nhiệt thành nhất của thuyết sinh vật hình thành tự phát cũng phải đồng ý với kết luận của ông. Pasteur tuyên bố mạnh mẽ: “Không! Hôm nay không còn một trường hợp nào có thể xác nhận vi sinh vật nẩy sinh từ một thế giới không có vi trùng. Những người cố duy trì quan điểm này là nạn nhân của một ảo tưởng, nạn nhân của những thí nghiệm kém cỏi, bị làm hỏng bởi những sai lầm mà họ vừa không có khả năng hiểu vừa không tránh khỏi”.

Ngày nay, các tín đồ của học thuyết sinh vật hình thành tự phát đang trở lại với ý định trả thù. Họ được gọi là nhà sinh học vũ trụ (astrobiologists) và tiến hóa hóa học. Quan điểm của họ là hiện tượng sinh vật hình thành tự phát không xảy ra một cách nhanh chóng, nhưng có thể diễn ra trong quá trình kéo dài hàng triệu năm, không phải từ nước dinh dưỡng, mà từ một loại soup-nguyên thủy (primordial-soup) – một loại chất hữu cơ hình thành một cách tự nhiên, như một số axit amin. Họ tin rằng, nếu có đủ thời gian và hoàn cảnh thích hợp, cuộc sống phát sinh từ các phân tử đơn giản rồi phát triển thành mọi loài sinh vật như ngày nay ta thấy, từ cá ngựa cho tới hươu cao cổ, khủng long, hoa hồng, và con người. Nhưng rốt cuộc họ có tìm được bằng chứng nào không? Tuyệt đối không!

Cho đến hôm nay, khi bạn đang đọc những dòng này, định luật hình thành sự sống của Pasteur, rằng chỉ có sự sống mới sinh ra sự sống, vẫn đứng vững như nó đã đứng vững từ năm 1862.

Câu chuyện này làm tôi nhớ đến một kỷ niệm ngót 55 năm trước, khi thầy dạy sinh vật của tôi hùng hồn giảng Thuyết Tiến hóa của Darwin, rằng sinh vật đơn bào tiến hóa thành sinh vật đa bào dưới nước, rồi thành nòng nọc, cá, ếch nhái, rồi lên bờ biến thành động vật bò sát, bò sát tiến hóa theo hai nhánh, một nhánh bay lên trời thành chim, một nhánh dưới đất thành động vật có vú, động vật có vú cao cấp nhất là khỉ, rồi khỉ tiến hóa thành người,… Thầy cho biết, động vật đầu tiên đơn giản nhất là con amip, vì nó chỉ có đúng một tế bào. Tôi giơ tay hỏi thầy: “Thưa thầy, vậy con amip từ đâu mà ra ạ? ”. Thay vì được thầy trả lời, tôi bị thầy mắng cho một trận. Tôi mang nỗi ấm ức ấy mãi cho đến sau này, khi biết rằng câu hỏi của tôi thực ra là câu hỏi thách đố các nhà Tiến hóa hoc, những người si mê học thuyết Darwin. Những người này chính là những đối thủ của Pasteur trong câu chuyện vừa kể ở trên. Họ tin rằng sự sống nẩy sinh tự phát, tức là hình thành một cách ngẫu nhiên từ những thực thể không sống (non-living things) – vào một ngày đẹp trời nào đó, dưới một tác nhân sấm sét nào đó trong quá khứ hàng triệu, hàng tỷ năm trước, đã xẩy ra một sự kết hợp ngẫu nhiên các hạt cơ bản, các nguyên tử, các phân tử nào đó, theo một cách nào đó để ngẫu nhiên sự sống ra đời. Hiện nay họ đang cố áp dụng mọi kỹ thuật hiện đại để tái tạo ra cái ngày đẹp trời đó, nhưng thời gian trôi qua hàng chục năm nay cho thấy cái ngày đẹp trời đó vẫn chưa xẩy ra. Có những lúc họ đã reo lên “eureka, tìm thấy rồi”, nhưng khảo sát kỹ lại thì vẫn chưa ổn, vẫn chưa thấy cái ngày đẹp trời đó đâu cả.

Tại sao có những người ngoan cố như thế? Đơn giản vì họ không tin và không muốn tin vào sự sáng tạo của Chúa. Họ có thể rất giỏi về chuyên môn sinh học, hóa học, vật lý học,… nhưng họ vô minh, họ kém về triết học, và đặc biệt, họ không có cái trực giác kỳ diệu như Louis Pasteur. Nhiều người đã hỏi nhà hóa học Émile Duclaux rằng tại sao nhiều nhà hóa học khác trong thời của Pasteur cũng dùng kính hiển vi tối tân để soi vào các tinh thể acid tartaric tổng hợp mà chẳng thấy có sự khác biệt nào cả, trong khi Pasteur lại phát hiện ra 2 loại tinh thể khác nhau của hợp chất đó, cái này là ảnh gương của cái kia. Duclaux trả lời rằng đơn giản vì những người ấy đinh ninh trong óc rằng không thể tồn tại 2 loại tinh thể khác nhau trong cùng một hợp chất! Vậy họ kém Pasteur ở trực giác! Nhưng trực giác là cái gì, nếu không phải là một tia sáng do Chúa rọi vào linh hồn của chúng ta?

Thay lời kết 

Trên tuyến xe lửa đi về Paris, có một thanh niên trẻ ngồi cạnh một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và chìm đắm trong cầu nguyện. Anh sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ khó chịu.

Sau một hồi lâu, xem chừng không thể chịu nổi, anh ta mạnh dạn lên tiếng:

- Thưa ông, ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí thế à?

Cụ già thản nhiên trả lời:

- Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?

Anh thanh niên xấc xược trả lời:

- Lúc nhỏ tôi có tin, nhưng bây giờ làm sao còn có thể tin vào những chuyện nhảm nhí ấy được nữa, bởi vì khoa học đã mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hãy học hỏi những khám phá mới của khoa học, rồi ông sẽ thấy những gì ông tin từ trước đến nay đều là những chuyện nhảm nhí hết.

Cụ già nhỏ nhẹ hỏi người sinh viên:

- Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học, liệu cậu có thể giúp tôi hiểu được những khám phá đó không?

- Được chứ, ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gửi sách vở đến cho ông, rồi ông sẽ say mê đi vào thế giới phong phú của khoa học cho mà xem.

Cụ già từ từ rút ra trong túi một tấm danh thiếp và trao cho anh sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, anh sinh viên bỗng tái mặt xấu hổ, rồi lẳng lặng rời sang toa khác.

Ấy là vì trên tấm danh thiếp có ghi:

“Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris”.

Câu chuyện trên làm tôi nghĩ ngay đến một câu nói bất hủ của chính Pasteur:

“Một chút khoa học sẽ gạt bỏ Chúa, giầu khoa học sẽ quay về với Chúa” (Un peu de science éloigne de Dieu, beaucoup de science y ramène).

Phạm Việt Hưng





[1] Ở Việt Nam thường gọi trường này là Cao đẳng Sư phạm. Theo tôi cách gọi này không ổn. Và có lẽ không nên dịch tên trường, vì không có cách dịch nào phản ánh chính xác nội dung đào tạo của trường.



Tài liệu tham khảo:


■ Louis Pasteur, Creation-Evolution Headlines, http://crev.info

■ Louis Pasteur, Access Excellence, http://www.accessexcellence.org

■ Louis Pasteur, Wikipedia, https://en.wikipedia.org

■ The essay by Prof. Cohn for the Centennial Celebration of the death of Pasteur,http://pyramid.spd.louisville.edu

■ Khơi Nguồn Đặc Sủng Thánh Linh Công Giáo http://www.khoi-nguon.com


Tiến Hóa hay Sáng Tạo

Mặc dù khoa học đã đạt được những thành tựu vô cùng vĩ đại, các quy luật của thế giới tự nhiên cứ lần lượt được phơi bày, sân chơi của Chúa tưởng chừng ngày càng hẹp lại; nhưng cứ mỗi lần các nhà khoa học vén được một bức màn đen do Chúa dựng nên này thì lại thấy một bức màn đen khác sừng sững trước mặt. Và cho đến tận ngày nay hai câu hỏi nguyên thủy “ Vũ trụ được hình thành thế nào?” và “Loài người xuất hiện từ đâu? Từ loài khỉ lớn (vượn hay tinh tinh) tiến hóa lên, hay do Chúa tạo ra ?”, xem ra vẫn chưa có câu trả lời cuối cùng; và liệu có thể có câu trả lời cuối cùng hay không? lại là một câu hỏi hóc búa khác. 

Sai lầm của Thuyết Tiến hóa

Thuyết tiến hóa, vượn người
Thuyết Big Bang hầu như đã được kiểm chứng. Ngày càng có nhiều bằng chứng khách quan cho thấy Vũ trụ, mà chúng ta đang ở trong, được sinh ra từ một vụ nổ lớn trong hư không khoảng 14 tỷ năm trước rồi dãn nở không ngừng, đồng đều theo mọi hướng, chứa hàng trăm tỷ thiên hà có kích thước khoảng 100.000 năm ánh sáng (một giây ánh sáng là 30 vạn km); mỗi thiên hà lại chứa hàng trăm tỷ ngôi sao; mỗi sao lại có một hệ thống hành tinh quay quanh như kiểu hệ Mặt trời của chúng ta. Khoảng hơn mười tỷ năm nữa Vũ trụ sẽ dừng dãn nở, co sụp lại thành một điểm như lúc ban đầu..



Nếu thuyết này là đúng thì vẫn còn những câu hỏi chưa thể có câu trả lời: Thế trước Big Bang là cái gì? Vì sao nó lại vận hành một cách trơn tru, hoàn hảo như thế? Vì sao các hằng số vật lý của Vũ trụ (tốc độ ánh sáng, điện tích của điện tử, hằng số Plank...) lại được gán cho những giá trị chính xác đến nỗi chỉ cần một trong các hằng số ấy thay đổi đi một phần triệu giá trị vốn có thì thế giới này không có sự sống, không có chúng ta - con người có khả năng tìm hiểu Vũ trụ?



Mặc dù vậy, các bằng chứng thực nghiệm về sự hình thành và tiến hoá của Vũ trụ cho đến nay vẫn ủng hộ thuyết Big Bang. Điều này khác hẳn với sự đáng ngờ của thuyết Tiến hóa về nguồn gốc của Loài người, rộ lên trong vài chục năm gần đây. Số người ủng hộ thuyết Tiến hóa còn rất nhiều (xem Nguyễn Văn Tuấn, Ykhoa.net/binhluan/), nhưng những người phản đối càng ngày càng làm tôi “nao núng”. Xin chia sẻ với bạn đọc những gì tôi thu nhận được từ lập luận của những người “phủ nhận sạch trơn” Darwin (xem Viethungpham.com).

Chúng ta đều biết Darwin (1809 - 1882) đã công bố Thuyết Tiến hoá của mình trong hai cuốn sách kinh điển: “Nguồn gốc các loài” ( 1859 ) và “Nguồn gốc con người” (1871). Trong đó ông đã khẳng định: 1) Các loài động vật tiến hoá từ bậc thấp lên bậc cao hơn theo quy luật chọn lọc tự nhiên những biến dị nhỏ ngẫu nhiên có lợi trong quá trình cạnh tranh sinh tồn, được tích tụ dần. 2) Sự sống được hình thành một cách tự phát ngẫu nhiên từ một tập hợp các nguyên tố hoá học. 3) Loài khỉ lớn (tinh tinh) là tổ tiên trực tiếp của Loài người.

Vào thời điểm ấy học thuyết này đã được hưởng ứng một cách cuồng nhiệt và tiếp tục mê hoặc các thế hệ sau cho đến tận cuối Thế kỷ 20. Ngày nay trong các trường học trên toàn thế giới, người ta vẫn vô tư rao giảng những quan điểm phi khoa học của Darwin. Sự “ngộ nhận thế kỷ” này có thể do hai nguyên nhân chính sau đây. Một là, công trình của Darwin ra đời vào đúng lúc xu thế vô thần và duy vật của Thế kỷ Khai minh đang nở rộ; nó đánh trúng vào tâm lý khoa học thời đại: sự sống và con người không phải do Chúa tạo ra. Hai là, cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất đạt được những thành công rực rỡ với sự ra đời của Vật lý học Newton, đã làm cho cộng đồng khoa học ngây ngất với ý tưởng “sân chơi” của Chúa đang thu hẹp lại và một ngày không xa khoa học sẽ trả lời được mọi câu hỏi về vạn vật. Thế nhưng, như bạn đọc sẽ thấy, đấy là một sự ngộ nhận tai hại.

Thuyết Tạo hoá

Sự sai lầm của thuyết Tiến hoá và sự ngộ nhận về nó sẽ không xảy ra nếu Darwin được biết đến công trình khoa học vĩ đại về Di truyền học của Gregor Mendel (1822-1884) ra đời chỉ sau cuốn “Nguồn gốc các loài” có bảy năm, 1866. Giá ông biết thì chắc ông đã buộc phải xem xét lại các luận điểm của mình. Không những chỉ Darwin không được biết mà cả thế giới cũng hầu như không biết tới công trình khoa học của Mendel vì nó đã bị rơi vào quên lãng. Ba mươi năm sau, vào năm 1900, lý thuyết di truyền của ngài Linh mục người Áo ấy mới được các nhà khoa học Đức và Hà Lan phát hiện. Từ đó di truyền học mới thực sự chào đời, và ngày càng được khẳng định đóng vai trò quan trọng trong Sinh học như thuyết Lượng tử trong Vật lý học. Di truyền học khẳng định những điều ngược lại hẳn với học thuyết Tiến hoá. Cụ thể là: 1) Phân tử ADN (vật liệu di truyền ở cấp độ phân tử quyết định các tính trạng của động vật) của mỗi loài là cố định, không biến đổi trong quá trình chọn lọc tự nhiên để thích nghi với môi trường sinh sống. Như vậy loài này không thể “tiến hoá” lên loài khác được. 2) Phân tử tế bào sống đơn giản nhất cũng không thể hình thành từ sự kết hợp ngẫu nhiên của các nguyên tử hoá học. Xác suất của quá trình ấy có thể coi là bằng không như đã được chứng minh bằng toán học cũng như mô phỏng trên các “siêu máy tính”. 3) Khỉ là khỉ, người là người. Bộ gene của khỉ dù có giống của người đến hơn 95% thì vẫn còn đó, một sự khác biệt về chất rất lớn nằm trong số vài phần trăm chứa trong ADN cấu tạo nên các gene. ADN của người có 46 nhiễm sắc thể, của tinh tinh là 48 nằm trong nhân mỗi tế bào, và hoàn toàn cố định.

Nhận được sự chào đón hồ hởi ngay từ khi mới ra đời, thuyết Tiến hóa đã “bùng nổ” sau “vụ án thế kỷ”, trong đó một giáo viên trung học người Mỹ là Scopes bị buộc tội rao giảng thuyết Tiến hóa tại một trường phổ thông ở Tiểu bang Tennesse đã thắng kiện. Người ta đồng nhất thắng lợi của Scopes với thắng lợi của thuyết Tiến hóa. Thế nhưng cũng bắt đầu từ đó các bằng chứng khách quan ngày càng chống lại Darwin về giả thuyết loài tinh tinh là tổ tiên trực tiếp của loài người.

Bằng chứng quan trọng nhất là suốt từ khi giả thuyết “khỉ biến thành người” ra đời cho đến nay, đã hơn một thế kỷ rưỡi trôi qua, không có một hóa thạch trung gian nào giữa khỉ và người được phát hiện. Chỉ có một bằng chứng “ngụy khoa học” được tạo dựng nên vào năm 1912. Lúc đó có người đã cả gan ghép hóa thạch hộp sọ của người cổ đại với hóa thạch xương hàm của một con tinh tinh cùng thời để “chứng minh” rằng đã tìm thấy một loài trung gian giữa khỉ và người, đúng như sự mong đợi của những người hâm mộ thuyết Tiến hóa. Thế nhưng trò lừa đảo đó mau chóng bị lật tẩy, và công việc tìm kiếm hóa thạch trung gian vẫn cứ được miệt mài… Ngoài ra, phái phản đối thuyết Tiến hóa khẳng định một cách không hề thiếu sức thuyết phục rằng: Nếu Mendel đúng thì Darwin phải sai, chứ không thể dung hòa.

Tôi e còn ít người biết được rằng sinh thời chính Darwin đã tuyên bố: “Nếu có bằng chứng cho thấy sự tiến hóa từ loài thấp hơn lên loài cao hơn mà không do sự tích tụ các biến đổi nhỏ liên tục thì lý thuyết của tôi là sai!”. Đúng như sự nghi ngại của ông, những phát hiện mới nhất của Di truyền học và Khảo cổ học nhiều lắm cũng chỉ chứng minh được rằng tinh tinh và người cùng phát sinh từ vùng Nam châu Phi cách đây khoảng 200.000 năm rồi lan tỏa đi khắp địa cầu. Thế thôi, vẫn không có một hóa thạch trung gian nào được phát hiện.

Cho nên ở nơi chín suối ông không thể không ân hận khi được biết chiến dịch tàn sát người da đỏ (bị coi là giống “nửa khỉ nửa người”) ở Úc cuối Thế kỷ 19, và tội ác diệt chủng của Hitler gây ra đối với người Do Thái trong Thế chiến thứ hai. Bởi không ai khác ngoài ông đã vạch đường cho quỷ dữ hoành hành khi tuyên bố: “Vào một giai đoạn nào đó, có thể tính bằng thế kỷ, các chủng tộc văn minh của loài người hầu như chắc chắn sẽ hủy diệt và thay thế các chủng tộc man rợ”.

Nếu thuyết Tiến hóa là sai thì thuyết Tạo hóa có nhiều cơ hội là đúng?

Không đơn giản như vậy! Chỉ có điều càng ngày càng nhiều nhà khoa học lỗi lạc tin rằng có một lực lượng siêu nhiên nào đấy đã lập trình sự sống và cài đặt nó vào các phân tử ADN dưới dạng các mã thông tin, như một bản thiết kế cực kỳ linh diệu. Đáng kinh ngạc thay, từ Thế kỷ 13 Thánh Thomas Aquine đã phán: “Bất cứ ở đâu tồn tại những thiết kế phức tạp, ở đó ắt phải có nhà thiết kế thông minh”. Nhà thiết kế thông minh ấy đã được nhân loại gán cho các tên: Đấng sáng tạo, Tạo hóa, Chúa trời của các tôn giáo; hay “Chúa phiếm thần” của các nhà khoa học.

Nếu bạn đọc còn do dự tin hay không tin vào một trong hai giả thuyết nói trên thì hãy nghe lời khuyên của Einstein mà vui sống. Ông nói thế này: “Có hai cách để sống: bạn chẳng tin vào phép màu nào cả, hoặc tin rằng mọi thứ đều là một phép màu”. Há chẳng thanh thản sao!

Chu Hảo

13:00:00

CHƯƠNG I: THỜI THƠ ẤU

Anôn sinh vào tháng 8 năm 1195 tại Lisbon, kinh đô nước Bồ đào Nha. Cha là Matinô, mẹ là Têrêsa. Hai ông bà thuộc hàng quý tộc, đầy lòng mộ đạo và kính mến Đức Mẹ cách riêng.

Khi Antôn vừa bập bẹ, mẹ đã dạy cho cậu kêu cầu thánh danh Chúa Giêsu và Mẹ Maria, cùng dạy cho một kinh Đức Mẹ mà Antôn hằng nhớ trọn đời.
Từ tấm bé, Antôn đã tỏ ra hiền lành, không thường chạy chơi với trẻ lân cận, Cậu chỉ ở nhà với mẹ hoặc theo mẹ đi nhà thờ. Khi quỳ trước bàn thờ Đức Mẹ thì cậu cũng chắp tay, quỳ gối, chăm chú như người lớn vậy. Khi vừa đến tuổi khôn lớn, thì Antôn theo ơn Chúa Thánh Thần, đã khấn giữ mình trinh khiết trọn đời theo gương Đức Mẹ. Vì lòng bác ái nên cậu rất vui sướng khi được cha mẹ giao tiền, giúp người nghèo.
Antôn được 10 tuổi thì cha mẹ Ngài gửi học trong nhà Cha sở gần đó, ở chung cùng với một số thiếu nhi khác, nhưng Antôn trổi hơn các bạn về học hành, nết na và đạo đức. Nhất là cậu mộ mến việc phụng vụ, cậu giúp lễ, xông hương nghiêm trang, sốt sắng như thiên thần vậy. Vì thế, cậu được thầy thương bạn mến.
Ma quỷ thầy vậy thì căm tức, toan hãm hại cậu. Một hôm, cậu đang cầu nguyện trên bậc đá bàn thờ Đức Mẹ như thường lệ, bỗng quỷ lấy hình gớm ghê nhẩy lên vai toan bóp cổ, Antôn muốn kêu danh thánh: Giêsu Maria mà không kêu được, cậu liền lấy ngón tay vẽ dấu Thánh giá vào bậc đá. Quỷ thấy vậy thì rút lui. Lạ lùng thay là dấu Thánh giá ấy ăn sâu vào đá, đến nay vẫn còn. Và khách hành hương hằng năm đua nhau đến tôn kính.

CHƯƠNG II: ANTÔN VÀO DÒNG VÀ LÀM LINH MỤC

Năm mười lăm tuổi, Antôn tỏ ý muốn dâng mình vào một tu hội, để tận tình phụng sự Chúa. Cha mẹ, bà con, bạn hữu đều ngăn cản vì cậu là trưởng nam, cần ở đời để nối dõi tông đường. Kẻ thì khuyên là hãy giãn ra một thời gian để biết rõ thánh ý Chúa hơn, kẻ thì chê cười là dại dột, bỏ tiền tài danh vọng mà theo đường khác khổ vô danh.
Nhưng Antôn coi phú quý vinh hoa như phân bón và cậu quyết chí chọn phần là dâng mình phụng thờ Chúa trọn đời.
Và thế là một sớm kia, Antôn trốn nhà đến tu viện Augustin gần đó, xin vào tu. Bề trên xem danh tính Người thì sẵn lòng tiếp nhận. Biết vậy, Antôn vui sướng dường nào !
Chẳng bao lâu thầy đã quen nếp sống nhà dòng và trở nên khiêm nhường, phục tòng, chăm chỉ chẳng kém gì các thầy kỳ cựu khác.
Thầy có trí thông minh phi thường, hiểu thấu những lẽ cao siêu, nhớ dai những điều đã học chỉ một lần. Thầy chăm học lắm. Dù đêm, dù ngày, thầy không rời sách vở.
Tuy nhiên, thầy lấy việc đi đàng nhân đức làm trọng hơn, để tập đức khiêm nhường, lấy việc hèn như làm bếp, quét nhà .. thầy đều tranh làm hết. Vì lòng bác ái, thầy xin được chăm sóc anh em bênh tật.
Có lần Chúa cho thầy lấy áo của thầy khoác áo cho bệnh nhân thì người ấy liền khỏi.
Năm thầy hai mươi lăm tuổi, nghĩa là gần mười năm tu trì, thầy đã vâng lời bề trên mà thụ phong linh mục.
Đang sống trong dòng thánh Augustin, thì xẩy ra vài biến cố làm cho thầy Antôn muốn thay đổi dòng tu. Số là tu viện Augustin có thông lệ bố thí tiền, gạo cho người đến xin mỗi tuần một lần vào ngày thứ tư. Một hôm thầy Antôn thấy hai tu sĩ Phan sinh mặc áo vải thô, sắc mặt vàng võ, lưng đeo bị đến ăn xin thì thầy Antôn động lòng tôn kính mến các thầy ấy lắm, mà cho là kẻ có phước, vì đã bắt chước đức khó nghèo của Chúa Giêsu cách trọn vẹn.
Cũng độ ấy, có cuộc rước xác năm vị thánh tử đạo, đều là thánh tu sĩ Phan sinh từ Bắc Phi về nước Bồ đào Nha. Cuộc khải hoàn ấy thật linh đình và trang trọng, nhất là có nhiều kẻ ốm đau, bệnh tật lâu dài, đều nhờ ơn các đấng ấy mà làm cho lành. Sự kiện nay làm cho thầy Antôn càng trọng mến dòng Phan sinh và ước ao được gia nhập dòng ấy để truyền giáo và được phúc tử đạo.
Nhưng nghĩ lại, bỏ dòng Augustin đã đào tạo nên mình thì mang tiếng là vô ơn, nên thầy Antôn ra sức đuổi ý tưởng ấy đi. Song càng xua đuổi thì nó lại càng trở lại mạnh hơn.
Người lo lắng ngày đêm xin Chúa soi sáng cho biết thánh ý Chúa. Một hôm trong lúc Người đang quỳ cầu nguyện trước tượng chuộc tội, bỗng thấy thánh Phanxicô Khó Khăn, gương mặt sáng láng hiện đến bảo rằng:
“Hỡi Antôn, đừng sợ hãi lo lắng nữa, Chúa sai cha đến báo cho con biết thánh ý Ngài muốn con vào dòng mà Ngài đã truyền cho cha lập. Cha sẽ làm cha con và con sẽ làm con cha”.
Thánh Phanxicô biến đi rồi, thì thầy Antôn mừng rỡ hết sức và quyết định theo ơn thiên triệu mới. Ngày hôm sau là ngày mùng 1 tháng 4, thầy Antôn từ tạ Bề trên và nhà dòng mà sang tu viện Phan sinh gần đó, thầy liền được thâu nhận rồi mặc áo dòng và đổi tên là ANTÔN, vì trước đó tên người là Phê-đi-năng.

CHƯƠNG III: SỰ CHUẨN BỊ CHO MỘT SỨ MẠNG TÔNG ĐỒ

Mới vào dòng Phan sinh được mấy tháng, thầy Antôn đã tình nguyện đi truyền giáo ở Bắc Phi, hầu thực hiện lý tưởng của mình. Bạn đồng hành là thầy Philipphê. Nhưng vừa đến nơi thì thầy Antôn ngã bệnh, nằm liệt 4 tháng trời, chẳng hoạt động chi được nữa. Khi loan baó, Bề trên dạy đưa thầy về chữa trị trong một tu viện ở Bồ Đào Nha.
Trên đường đi, gặp bão to gió lớn, nên tàu dạt vào Sicilia nước Ý. Và từ đó, thầy Antôn không về đến quê hương được nữa.
Trên đảo này có dòng Phan sinh mới thành lập; còn thiếu thốn nhiều điều, nhất là nước uống. Đã đào nhiều nơi trong vườn mà vẫn không thấy có nước, thấy vậy thầy Antôn liền cầu nguyện một lúc rồi chỉ một địa điểm trong vườn, tức thì gặp được mạch nước ngọt rất trong. Giếng ấy nay vẫn còn và người ta gọi là giếng thánh Antôn. Cũng còn một quả chuông gọi là chuông thánh Antôn do Người lưu lại: hễ gặp phong ba sấm sét xuất hiện thì thỉnh lên để cầu bình an.
Ở đó dưỡng bệnh được hơn một tháng thầy Antôn cùng với thầy Philipphê đi Átxidi, cách đó xa khoảng mười ngày đàng đi bộ, để dự Tu nghị toàn Dòng, dưới quyền chủ tọa của Đấng sáng lập các bậc đàn anh trong dòng. Nhưng khi bế mạc, bề trên không cắt cử thầy Antôn công tác nào cả, vì thấy Người còn quá yếu.
Đang khi, thầy còn đang bơ vơ, thì thầy Casianô, Bề trên Dòng tại xứ Phêlixia gặp thầy Antôn hỏi:

- Thầy đã có bài sai chưa?
- Thưa cha, chưa! Thầy Antôn đáp lại.
- Thầy đã chịu chức linh mục chưa ?
- Thưa cha, đã chịu chức Linh Mục rồi.
- Thế thầy có muốn đi với tôi chăng ?
- Thánh ý Đức Chúa Trời muốn cho con đi đâu thì con đi đó.
- Vậy thầy hãy đi với tôi.

Thầy Antôn liền đi theo Bề trên Casianô về tu viện xứ Phêlixia. Bề trên dạy Người rửa chén bát, quét nhà, dọn phòng cho các thầy, Người vui mừng lắm. Sau đó, được bề trên chấp thuận, Người lên hang núi cao mà ăn chay cầu nguyện trong vòng chín tháng, như các thánh tu rừng xưa. Đó là phương cách Chúa dùng để chuẩn bị cho Người rao giảng lời Chúa sau này.

CHƯƠNG IV: NHÀ GIẢNG THUYẾT LỪNG DANH

Trong truyện các vĩ nhân, ta thường thấy rằng: xuyên qua một sự việc bất ngờ mà thiên hạ nhận ra thiên tài của các vị ấy, trường hợp của Thánh Antôn cũng vậy.
Năm ấy, Đức Giám mục thành Phôli truyền chức linh mục cho nhiều tu sĩ của hai dòng Đaminh và Phan sinh, các bề trên đều đến dự lễ, trong số đó có bề trên Casianô mà thầy Antôn tháp tùng.
Trong lễ truyền chức, Đức Giám mục vốn quen giảng một bài trọng thể. Nhưng hôm ấy, Ngài mệt nên nên không thể giảng được, và có lời mời nhờ các bề trên trong dòng giảng thay. Các vị này đều xin kiếu, vì chưa chuẩn bị soạn kỹ nội dung bài giảng.
Bấy giờ, Bề trên Casianô cho gọi thầy Antôn và truyền cho thầy phải giảng, thầy Antôn vì khiêm tốn không dám nhận nhiệm vụ này, vì từ thưở vào dòng, thầy chưa giảng bao giờ. Nhưng vì vâng lời bề trên, thầy lên toà giảng ngay.
Thấy Người đứng trên toà giảng, các tu sĩ đều ái ngại cho thầy. Một kẻ chỉ quen quét nhà, dọn rác, rửa bát mà dám lên giảng dạy ư?. Nhưng khi thầy Antôn giảng thao thao bất tuyệt về đề tài “Đức Kitô đã vâng lời cho đến chết vì lòng thương chúng ta” thì mọi người mới rất đỗi ngạc nhiên trước tài hùng biện của thầy Antôn, thầy đưa ra những lý mạnh, lẽ cao, dẫn chứng lời Thánh Kinh, lời giáo phụ một cách mạch lạc, chính xác như thể là một bậc thầy chuyên về giảng thuyết xưa nay vậy. Giọng thầy thì âm vang, lời thầy thì sốt sắng thấu tận lòng người nghe. Từ Đức Giám mục cho đến toàn thể cử toạ đều cảm kích, xúc động và thốt lên rằng: thật từ xưa đến nay chưa được nghe đấng nào giảng hay và thấm thía đến như thế !
Dòng Phan sinh vui mừng có một nhà hùng biện sẽ làm sáng danh Chúa. Bề trên Casianô liền ban bài sai cho phép thầy được đi giảng khắp miền lân cận. Đồng thời, Người cũng loan báo cho thánh Phanxicô biết nữa.
Thánh phụ mừng lắm, ngước mắt lên trời tạ ơn Chúa: “Chúa đã ban cho chúng con một người xuất sắc”. Rồi người truyền cho thầy Antôn phải dạy thần học cho các tu sĩ trong dòng. Người vâng lời dạy thần học trong các tu viện Phan sinh thuộc nước Ý và nước Pháp công việc rất thành công.
Nhưng Thiên Chúa muốn chọn thầy làm đèn sáng cho thiên hạ, nên chẳng bao lâu, thánh Tổ phụ truyền cho thầy giảng cho kẻ tội lỗi, người rối đạo, hối cải ăn năn tại các nước Ý và nước Pháp. Với sứ vụ tông đồ ấy, thầy đã hoàn thành với vô vàn hiệu quả thiêng liêng, trong vòng 10 năm từ khi thầy mới 25 tuổi cho đến khi thầy qua đời.
Bấy lâu trước đây, thiên hạ chưa từng thấy có đấng nào giảng dạy sốt sắng và làm nhiều phép lạ cho bằng (có lẽ chỉ có thánh Vinh sơn, hai thế kỉ sau mới sánh kịp). Danh tiếng thầy Antôn vang dồn khắp mọi nơi, ai ai cũng háo hức muốn thấy tận mặt, nhìn tận mắt, nghe tận nơi. Khi được tin thầy đi đến đâu, với người nông dân thôn dã thì bỏ cả vụ mùa, công việc đồng áng, người ở thành thị thì dù đang bán buôn, cũng đóng hết cửa hàng … đều tuốn đến để nghe thầy giảng dạy, có kẻ đi suốt đêm mà đến. Số thính giả từ một vạn đến ba bốn vạn người, thầy giảng dạy ngoài trời, ở công viên, giữa phố xá, chợ búa và có khi ngay cả ngoài đồng.
Ngoài tài hùng biện tự nhiên, dường như thầy còn có sự hấp dẫn siêu nhiên nữa. Khi thầy đứng giảng, thì người ta tưởng như nghe một vị thiên thần đang nói với mình. Lý lẽ mạnh, cung giọng thiết tha, trầm ấm, truyền cảm của thầy làm cho nhiều kẻ lòng chai dạ đá cũng phải mềm ra,. Đã biết bao kẻ tội lỗi ăn năn trở về đàng ngay, bao kẻ rối đạo được ơn trở lại, bao kẻ thù địch được thuận hoà êm ấm, người bất hạnh được được trả ơn, trả của… Chúa cũng cho thầy làm phép lạ nhãn tiền để khuất phục kẻ chai lòng cứng dạ.
Trải qua mười lăm năm lưu thuyết, khắp các vùng hai nước Ý và Pháp, thầy Antôn cùng với lời giảng, đã làm vô vàn phép lạ đến nỗi người đương thời gọi thầy là “Ông Thánh hay làm phép lạ!”

CHƯƠNG V: NHỮNG KẾT QUẢ CỦA LỜI GIẢNG

Lời giảng nảy lửa của thánh Antôn có phép lạ Chúa đi kèm, nên làm cho nhiều kẻ bỏ đạo, được ăn năn, người lạc đạo trở lại đường ngay.

1. Cá về nghe giảng.
Tại thành Điminô, nước Ý, có nhiều kẻ lạc đạo, nhưng không muốn đi nghe thầy Antôn giảng, sợ kẻo phải trở lại chăng. Một hôm, do ơn Chúa thúc giục, thầy ra bờ biển gọi các cá đến nghe giảng, cá kéo đến rất nhiều nhưng lớp lang thứ tự, nhỏ trước lớn sau. Ngóc đầu lên khỏi mặt nước, chúng đều hướng về thầy Antôn, người liền bảo cá rằng:
“Hỡi loài cá mú! Hãy tạ ơn ngợi khen Thiên Chúa. Vì Ngài đã tạo dựng nên bay: đã ban biển cả mênh mông cho bay bơi lội, đã khoét hang hóc an toàn cho bay ẩn mình lúc phong ba bão táp. Đại hồng thuỷ đã tiêu diệt loài người, loài vật, nhưng Chúa vẫn bảo tồn bay, cho bay được sống, được sinh sản thêm nhiều và ban lương thực hàng ngày cho bay. Vì thế hỡi loài cá mú! Bay phải tạ ơn Thiên Chúa chẳng cùng ”.
Khi được tin cá đến nghe thầy Antôn giảng, thì dân thành nô nức kéo ra. Họ thấy khi thầy Antôn giảng, cá cất đầu, hà hơi, vẫy đuôi tỏ ý vui sướng, tán thành. Sau khi ban phép lành và cho cá giải tán, thầy Antôn quay lại bảo kẻ rối đạo rằng:
“Anh xem đó! Cá là loài vô tri mà còn biết nghe lời Thiên Chúa; mà anh em là loại hữu tri, đã được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Giêsu, mà chẳng muốn nghe lời Thiên Chúa, chẳng muốn phụng sự kính mến Ngài hay sao?”.
Từ đó về sau, kẻ rối đạo siêng năng đến nghe lời thầy Antôn giảng, và có nhiều người quy hồi chính đạo.

2. Thuốc độc hại.
Cũng tại thành Điminô, có kẻ rối đạo muốn sát hại thầy Antôn cho bõ ghét, nó mời thầy đến dùng bữa và nó bỏ thuốc độc vào. Vốn không quen đi ăn tại nhà ai: nhưng lần này thầy nhận lời và muốn có dịp mà khuyên răn gia chủ.
Nhưng khi mới ngồi bàn ăn thì Chúa soi sáng cho Người biết mưu sâu chước độc của nó. Người khiển trách nó rằng: “Anh làm thế không tốt đâu! Hoặc giả anh nghĩ: tôi chết đi thì không còn có ai giảng đạo nữa chăng?” thấy mưu sâu mình bị lộ, anh chủ nhà chữa thẹn rằng: “Tôi không dụng tâm giết thầy nhưng có ý thử xem lời Kinh Thánh nói rằng: “kẻ tin Ta dù có uống thuốc độc cũng không hại gì” có thật vậy hay là không thôi. Nếu thầy ăn của độc này mà vô sự thì tôi sẽ tin theo đạo thầy”.
Thầy Antôn liền làm dấu thánh giá trên thực phẩm rồi ăn ngay, mà bằng an vô sự. Kẻ rối đạo thấy vậy thì trở lại thật.

3. Ngựa đói chê cỏ.
Tại thành Tulu, nước Pháp, thầy Antôn tranh luận với nhóm rối đạo về mầu nhiệm Chúa Giêsu ngự thật trong Thánh Thể. Sau khi nghe thầy trình bày những luận cứ vững vàng, thì một người rối đạo nói:
- “Đã hay lời Chúa Giêsu thì rõ ràng lắm, song nếu con mắt tôi không tỏ tường, thì tôi không tin”.
Thầy Antôn liền hỏi:
- Vậy anh muốn tôi làm phép lạ nào?
- Tôi có một con ngựa. Ngày thứ bốn tôi sẽ dắt ra đây cùng một bó bỏ non. Còn thầy, thầy sẽ đưa Thánh Thể ra trước mặt nó. Nếu nó bỏ cỏ không ăn mà quỳ lạy Thánh Thể, thì tôi sẽ tin có Chúa Giêsu ngự thật trong đó.
Thầy Antôn nhận cuộc, rồi quay về tu viện ăn chay, cầu nguyện ba ngày ba đêm.
Đến ngày hẹn, từ sáng sớm, dân chúng đã tuôn đến đầy chợ. Ông chủ dắt ngựa đi trước, đầy tớ đội cỏ theo sau. Đồng thời, thầy Antôn cũng kiệu Mình Thánh Chúa đến và nói lớn: “Hỡi con vật vô tri, nhân danh Chúa Giêsu đã dựng nên mi, và đang ngự trước mặt mi, ta truyền cho mi phải quỳ gối thờ lạy Chúa, để thiên hạ biết rằng vạn vật trên trời, dưới đất phải thờ lạy Ngài”.
Đang khi thầy nói, thì đầy tớ vâng lời chủ vội đem sọt cỏ đặt ngay trước mõm ngựa, nhưng nó chẳng thèm để ý tới: chỉ vội vàng quỳ hai chân trước xuống thờ lạy Chúa; dù tên đầy tớ ra sức ấn cỏ vào mồm, nhưng ngựa vẫn không thèm ăn, cứ quỳ yên cho đến khi thầy Antôn kiệu Mình Thánh Chúa về mới đứng lên ăn. Phần người rối đạo nói trên cùng cả dòng họ thì đã trở lại đạo thật và sống đạo nên gương. Ông lại còn bỏ tiền của xây một đền thờ tôn kính thánh Phêrô tại thành Tulu, đến nay hãy còn.

CHƯƠNG VI: CHÚA YÊU, QUỶ SỢ

Có những sự kiện tỏ ra thầy Antôn được Thiên Chúa thương yêu chừng nào thì ma quỷ ghen ghét chừng ấy.

1. Chúa Hài đồng hiện ra.
Trong khi lưu thuyết trên nước Pháp; một hôm thầy trọ đêm trong phòng vắng vẻ của một nhà kia. Bỗng nửa đêm phòng thầy sáng rực. Chủ nhà mon men tới xem thì thầy Người đang ngất trí cầu nguyện và Chúa Hài đồng hiện đến ngự trị trên cánh tay Người vẻ đơn sơ, âu yếm để cho Người ẵm bồng và hôn kính.
Rồi chủ nhà nhẹ nhàng rút lui, tưởng thánh nhân không biết. Chẳng dè, sáng hôm sau, trước khi ra đi, Người dặn chủ nhà không được tiết lộ việc ấy ra. Vâng theo lời dặn, ông ấy giữ kỹ điều bí mật. Đến khi thánh nhân qua đời rồi, ông mới tỏ ra vinh danh của ông thánh, vì Người đã được Chúa Giêsu yêu mến như vậy. Do tích này mà tượng thánh Antôn thường có bồng Chúa Hài đồng trên tay.

2. Quỷ quấy phá thánh nhân.
Thầy Antôn làm sáng danh Thiên Chúa và cứu vớt nhiều linh hồn, nên quỷ giận ghét Người lắm. Chẳng những nó cố sức ngăn cản công việc của Người mà có toan giết, hãm hại Người nữa.
Một hôm, người vừa ngả mình được một lát, quỷ liền xông vào bóp cổ Người, chặt đến nỗi, nếu như không được Đức Mẹ cứu kịp thời, thì Người đã tắt thở. Nhưng Người mau mắn làm dấu Thánh Giá trên mình và đọc thầm trong trí Kinh Đức Mẹ mà Người vốn thuộc từ bé, thì quỷ buông Người ra và biến đi.
Một đêm khác, thầy Antôn đang cầu nguyện nơi hang đá kia, bỗng chốc quỷ lấy hình hung ác hiện ra, giơ tay lên toan đánh chết Người, Người liền đọc Kinh Đức Mẹ, thì Đức Mẹ hiện ra sáng chói trên đám mây, giữa muôn vàn thiên thần, quỷ tức thì sợ hãi trốn mất dạng. Về sau, người ta xây một bàn thờ trong hang ấy để tạ ơn Đức Mẹ, bàn thờ ấy ngày nay vẫn còn và người ta năng đến kính viếng.

3. Ơn nói tiên tri.
Tại thành Anisi, nước Pháp, có một người đàn ông giàu sang, nhưng bê bối về đạo vợ chồng. Một hôm, thầy Antôn gặp ông và nói: “Tôi quý ông, vì tôi biết sau này ông sẽ sửa mình, đi truyền giáo và được phúc tử đạo nữa”.
Người ấy nghe nói vậy thì cúi đầu cười rồi bỏ đi. Chẳng bao lâu, ông ấy được ơn hối cải: lại nhiệt thành theo Đức Giám Mục Giáo Phận sang giảng đạo cho người Hồi giáo tại Đất Thánh được nhiều thành quả và sau cùng được phúc tử đạo cùng với Đấng Giám Mục ấy .
Cũng tại thành Anisi, có một bà đến xin làm phép thai, thầy Antôn bảo: “bà hãy vui mừng, con bà sẽ gọi là Philliphê, sẽ tu Dòng Phan Sinh và nên cao trọng trước mặt Chúa vì phúc tử đạo”.
Mọi việc xảy ra đúng như thầy báo trước. Người con ấy đã làm linh mục Phan Sinh, sang Đất Thánh lo việc đạo, chẳng may bị người Hồi bắt sống cùng nhóm bạn đông lắm. Bấy giờ quân Hồi cho các giáo hữu chọn một trong hai điều này: một là bỏ đạo mình mà theo đạo Hồi, hai là bị xử chém tất cả. Thầy Philliphê sốt sắng khuyên anh em thà chết hơn là bỏ đạo Đức Giêsu.
Và mọi người cùng với thầy giữ vững đức tin xưng đạo ra, để lãnh lấy nhành thiên tuế tử đạo.

CHƯƠNG VII: HIẾU THẢO TRI ÂN

Thầy Antôn hằng hiếu thảo với cha mẹ và đền đáp kẻ làm ơn cho mình.

1. Cứu cha khỏi oan khổ. 
Ta không có tài liệu để biết cách Người hiếu thảo thế nào với cha mẹ, mà Người hằng thương nhớ vô cùng; nhưng nói về cha thì có tích sau đây:
Cha Người là ông Matinô, là quản khố Nhà Nước tại kinh thành Lisbon . Ông là người công minh, chính trực, không hề tơ hào đến của cải nhà Vua, nhưng có tính dễ dãi thương người. Ông cho mấy bạn đồng liêu vay tạm của kho, mà không bắt làm khế tự. Đáng lẽ những người ấy biết ơn ông mới phải. Nhưng than ôi, đời này biết ơn thì hiếm lắm! Họ đã không trả nợ, lại cùng nhau tố cáo là phân tán của kho.
Nhà Vua cho mở cuộc điều tra. Ông Matinô khai đúng sự thật, nhưng ban điều tra không tin, vì khẩu thuyết vô bằng. Nên chẳng những phải bồi hoàn, mà còn bị tù tội nữa.
Được tin ấy, thầy Antôn cầu xin Chúa thương cứu giúp cha mình cách nào. Bỗng Thiên Thần đem Người từ nước Ý về nước Bồ Đào Nha trong nháy mắt. Người vào toà án nơi đang xử cha Người. Người liền nói cho các quan biết tên những kẻ đã vay của kho, mỗi người là bao nhiêu, rồi cho đòi chúng đến. Trước uy quyền của thánh nhân, chúng đã thú nhận mọi sự và cha Người được minh oan.
Nhưng chưa hết, ông Matinô còn gặp một vụ khó khăn lớn hơn thế nữa. Số là dân thành đánh nhau làm cho một người mất mạng. Để thoát tay thần công lý, chúng lén chôn xác nạn nhân vào vườn nhà ông Matinô và vu oan cho ông tội giết người. Tòa luận cho Matinô và một tên đầy tớ của ông phải án tù. Bấy giờ, thầy Antôn đang ở nước Ý, được Thiên Thần mang ngay về thành Lisbon, Bồ Đào Nha, chính lúc cha Người bị điệu ra pháp trường. Người liền bảo đưa quan tài người chết đến, thầy sấp mình cầu nguyện rồi lấy giọng oai nghiêm bảo kẻ chết rằng: “Nhân danh Chúa Giêsu, ta truyền cho ngươi sống lại và nói cho mọi người ở đây ai là người giết ngươi”.
Người chết liền sống lại và nói rõ ràng: “Không phải ông Matinô giết nhưng chính kẻ vu khống đã giết tôi”. Các quan tòa liền thả ông Matinô và người gia bộc đồng thời lên án tù cho kẻ vu cáo.

2. Ly vỡ lại lành.
Thầy Antôn hay đền đáp cho kẻ làm ơn cho mình. Trên đường từ Pháp về Ý, Người cùng một bạn đồng hành vào trọ đêm trong nhà của một bà đạo đức và nghèo khó. Bà chỉ mượn hàng xóm một cái ly cho hai người, thế mà tu sĩ đồng hành lại đánh rơi vỡ nát. Đã vậy, thùng rượu vang dưới nhà lại quên khóa vòi lại, chảy tràn lan. Hai tai vạ một trật, bà chịu không nổi liền đem tâm sự với thầy Antôn. Người vừa cúi đầu cầu nguyện thì bà thấy các mảnh vỡ đã ráp lại và cái ly trở lại nguyên lành như trước.
Bà liền nghĩ: “Đấng làm ly vỡ lại lành, ắt cũng có phép làm cho vò rượu vơi lại đầy như cũ”. Cho nên, bà chạy xuống nhà xem sao, thì quả nhiên thấy vò rượu đã đầy. Bà liền chạy lên quỳ gối tạ ơn ông thánh.

CHƯƠNG VIII: VỀ NHÀ CHA

1. Pađua , quê hương thứ hai.
Sinh quán là người thành Lisbon, đáng lẽ gọi Người là Thánh Antôn thành Lisbon mới phải, tại sao lại gọi là Thánh Antôn thành Pađua.
Thưa, vì Người đã chọn thành ấy là quê hương thứ hai, đã ở đó lâu năm và qua đời, lại cũng an táng ở đó. Lại vì dân thành ấy ngoan đạo, có lòng mạnh tin và có lòng mộ mến người dòng Phan Sinh rất đặc biệt.
Đừng kể lần giảng trước, thì năm 1231, là chính năm Người qua đời, Người đã giảng đại phúc mùa chay cho họ, bắt đầu từ ngày mồng 5 tháng 2, mà Người giảng giải khéo léo, sốt sắng hơn mọi khi ; nên dân thành say mê, quên ăn, quên ngủ, bỏ hết mọi việc , cửa nhà, để đến mà nghe cho thỏa. Nhiều giáo dân vùng phụ cận cũng kéo tới. Số người nghe đến ba bốn vạn nên giảng ở ngoài công viên hoặc ngoài cánh đồng. Tuy đông đảo như vậy, mà khi Người giảng, cử tọa im phăng phắc. Mỗi khi Người qua đám đông mà đến tòa giảng hoặc từ tòa giảng về thì người ta xô lấn nhau cố lại gần để hôn chân, hôn tay, hôn áo, nên phải có mười người lực lưỡng đi theo để bảo vệ.

2. Đấng Thánh qua đời.
Sau mấy tháng giảng đại phúc ấy, thầy Antôn cảm thấy yếu mệt, kiệt sức khác thường và biết mình chẳng còn sống bao lâu nữa. Nên Người quyết bỏ mọi việc để dọn mình chết lành.
Với hai thầy dòng thân tín, Người lánh vào khu rừng gần đó, làm ba người ba cái chòi để đọc kinh, nguyện ngắm, hãm mình. Trước cái chết sẽ đến, mỗi lúc mỗi gần, thầy Antôn đã không lo buồn, lại mong ước được thoát ly để mau đến cùng Đức Kitô.
Đến ngày 13 tháng 06 năm 1231, Người ngồi vào bàn ăn thì ngất đi. Đến khi tỉnh lại Người bảo các thầy: “ Tôi chết hôm nay. Xin đem ngay tôi về tu viện”. Nhưng vừa đến cửa thành, Người lại ngất đi, nên phải đem vào nhà thương tế bần gần đó, do dòng Phan Sinh thiết lập, điều hành. Khi tỉnh lại, Người khiêm nhường xưng tội, rước Mình Chúa làm của ăn đàng và lĩnh bí tích Xức dầu bệnh nhân một cách thật sốt sắng. Sau đó, Người như bớt mệt, nên đọc hết kinh Đức Mẹ mà Người quen đọc từ nhỏ. Rồi Người ngửa mặt lên trời, mắt trừng trừng trông lên như thể xem thấy một sự lạ. Các thầy hỏi Người: “Thầy xem sự gì đó?”.
Người đáp: “Tôi xem thấy Chúa Giêsu, Người ra hiệu bảo tôi đến cùng Người ngay”.
Nói rồi, thầy Antôn cười và tắt thở, phó linh hồn trong tay Chúa, tròn ba mươi sáu tuổi.

3. Tang lễ hay khải hoàn?
Trong khi nhà dòng chưa kịp loan báo tin buồn, thì khắp thành, trẻ nhỏ đều kêu lên: “Cha Antôn đã chết! Người về thiên đàng rồi”. Nghe nói thế, đàn ông, đàn bà, già trẻ, lớn bé, mọi người trong thành chạy đến nhà thương để chiêm ngưỡng Người lần sau hết. Họ khóc rằng: “Ôi cha rất thánh! Người sao bỏ chúng con mồ côi vậy”.
Người ta định an táng Người tại tu viện của dòng Phan Sinh. Lẽ đương nhiên là thế, nhưng dân địa phương vây xung quanh bệnh viện, nơi Người qua đời, lại muốn an táng Người trên đất của họ. Suốt ba ngày họ cầm khí giới canh xác chẳng cho mang đi. Điều đình mãi cũng không ổn. Đến sáng ngày thứ tư thì họ nhượng bộ.
Ngày 17 tháng 6, tức 4 ngày sau ngày thầy tạ thế, lễ an táng được cử hành long trọng, xưa nay ít có lễ tang nào sánh kịp. Có đủ mặt các đấng vị vọng của đạo và đời, ngoài dân thành Padua còn vô vàn người từ xa tuốn đến nữa.
Khi còn sống, Thầy Antôn làm nhiều phép lạ, sau khi chết, càng nhiều phép lạ hơn. Đang khi đưa đám thầy, có nhiều bệnh nhân được khỏi tức thì. Và người ta càng thêm lòng tôn kính và khóc lóc thương tiếc thầy hơn nữa.

CHƯƠNG IX: HẠNH PHÚC VÀ VINH QUANG

1. Lễ phong thánh.
Cha Antôn qua đời chưa được đầy năm thì Giáo Hội đã phong thánh cho Người. Xưa nay, chưa từng thấy đấng nào chóng được phong thánh đến như vậy. Là vì thiên hạ coi Người là thánh sống, qua các nhân đức và phép lạ của Người
Vậy ngày lễ Chúa Thánh Thần (tháng 5) năm 1232, Đức Giáo Hoàng Grêgoriô X đã làm lễ phong thánh cho Người tại thành Spoleta, nước Ý, mới mười một tháng, sau ngày Người tạ thế. Đúng vào giờ đó, các chuông nhà thờ thành Lisbon thấy tự nhiên đổ vang lừng. Ai nấy đều đua nhau trẩy đến nhà thờ xem mà chẳng biết lý do gì. Đến sau này mới rõ là để mừng Thánh Antôn

2. Đền thánh Antôn tại Padua.
Dân thành Padua vốn kính mến và cậy trông Cha Antôn, vì thế cùng tôn Người là Thánh Bảo Trợ và quyết định xây dựng một đền thờ mới rất đẹp để tôn kính Người. Họ đi khắp nơi để tìm thầy tài, thợ giỏi, sắm đá quý, gỗ tốt, không tiếc công, tiếc của. Đức Giáo Hoàng thấy vậy cũng kêu gọi sự tiếp tay của thế giới Công giáo. Tính ra, một ngàn tay thợ giỏi, phải mất đến 32 năm mới hoàn thành. Công trình thật nguy nga tráng lệ, đáng xếp vào hàng những nhà thờ đẹp nhất, danh tiếng nhất thời bấy giờ.
Năm 1263, trong dịp lễ thánh nhân, người ta đưa hài cốt Thánh Antôn từ tu viện đến nhà thờ mới, dưới sự điều khiển của thánh Bonaventura, cũng thuộc dòng Phan sinh. Khi khai quật lên thì thấy da thịt đã tiêu tan hết, nhưng riêng lưỡi thì còn y nguyên. Thánh Bonaventura hôn kính “lưỡi đáng kính trọng” ấy, rồi thốt lên: “Bởi lưỡi thánh này đã ngợi khen Thiên Chúa và khuyên dụ nhiều người ngợi khen Thiên Chúa, nên Ngài đã gìn giữ lưỡi này còn nguyên vẹn cho đến bây giờ”. Rồi truyền đạt cất lưỡi ấy vào một bình bạc để tôn kính riêng.
Từ đó khách hành hương từ khắp nơi đến viếng nhà thờ và mộ thánh để cầu nguyện và xin ơn. Trên mộ Người có hàng trăm đèn thắp nến sáng đêm ngày. Và thánh nhân hằng ban ơn giáng phúc, chẳng những về thể xác mà nhất là về phần linh hồn.Chính thánh Bonaventura đã chứng kiến và ca ngợi rằng: “Ai muốn nhờ phép lạ thì phải chạy đến cùng Thánh Antôn. Người cứu chữa lúc gian nan, giúp đỡ khi túng cực. Hãy hỏi dân thành Padua , hãy hỏi các khách hành hương, họ sẽ nói lên sự thật ấy”.

3. Đến thành Lisbon, nước Bồ Đào Nha.
Thành Lisbon là kinh thành nứơc Bồ đào Nha và là nơi sinh quán của thánh nhân. Do có lòng kính mến, nên người ta đã cất một nhà thờ to lớn, trên nền nhà, nơi Người đã sinh tại đó.
Năm đó có động đất dữ dội, nhà cửa thành Lisbon đổ xuống, gây thiệt mạng rất nhiều người, đồng thời hoả hoạn lan tràn, đốt cháy thiệt hại nhiều vô kể. Đền Thánh Antôn cũng đổ, cũng cháy nhưng có điều lạ là Tượng Thánh Nhân và bàn thờ vẫn cò y nguyên.
Lại khi động đất, có một thanh niên đến quỳ trước tòa ông thánh, bị bức tường đá đổ xuống đè lên người anh. Ai cũng tưởng là anh ta đã chết. Ai dè ngày sau, sau khi thu dọn gạch, đá vôi vữa, thì thấy anh ta ngồi dưới bức tường đổ bình an vô sự. Anh ta kể rằng: “Chính ông Thánh Antôn đã cứu chữa và đưa lương thực mỗi ngày cho tôi”.
Chẳng riêng gì thủ đô mà cả nước Bồ Đào Nha đều nhiệt liệt sùng kính ông thánh đồng hương, nên hằng được Người ra tay cứu chữa.

4. Đền thánh Tua, nước Pháp.
Dân thành Tua ngoan đạo, mạnh tin và vẫn có lòng sùng kính thánh Antôn, là bổn mạng của thành. Từ sau khi nhận được xương và sọ đầu của thánh nhân. Số là năm 1348, có Đức Hồng Y, Khâm Sai Toà Thánh, đi qua thành này thì ngã bệnh nguy cấp lắm. Sau khi cầu xin Thánh Bảo Trợ thành này thì được khỏi. Về sau, nhân dịp Ngài đến thành Pađua chứng kiến lễ cải táng Thánh Antôn, thì xin được xương đầu của Người mà gởi tặng cho thành Tua để đền ơn đáp nghĩa. Dân thành tiếp nhận được của quý trọng thì mừng hơn được vàng.
Từ đó, dân thành càng kính mến cậy trông thánh nhân hơn nữa. Việc lớn, việc nhỏ, phần xác, phần hồn họ đều chạy nhờ thánh nhân. Vì thế, Người thương yêu, săn sóc dân thành chẳng kém gì dân thành Pađua.Trời hạn hán, kêu cầu thì được mưa. Đồng lụt lội, kêu cầu thì được tạnh hanh. Làng bên gặp dịch tả chết rất nhiều, mà dân thành Tua cầu khấn Thánh Antôn thì bằng an vô sự. Biết bao kẻ bệnh hoạn được khỏi, người túng cực được giúp đỡ, kẻ mất của được tìm thấy.
Xem thế, đủ biết thiên hạ sùng kính Thánh Antôn và được Người giúp đỡ, thương yêu đến chừng nào.

Author Name

{picture#https://1.bp.blogspot.com/-E9BgdfTl7Ug/Xpa2B9OupwI/AAAAAAAAA1U/PnbaR3h3-jE-jQ5GwdNpEvZGUfRWCLz6gCLcBGAsYHQ/s1600/Ch%25C6%25B0a%2B%25C4%2591%25E1%25BA%25B7t%2Bt%25C3%25AAn-1.png} {facebook#https://www.facebook.com/giaoxulocthuygpvinh} {twitter#https://twitter.com/giaoxulocthuy} {youtube#https://www.youtube.com/@giaoxulocthuy}

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.