Cv.
1, 1-11; Dt. 9, 24-28; 10, 19-23; Lc. 24, 46-53
MỤC
LỤC
1.
Bàn tay Chúa.
2.
Chúa lên trời
3.
Sức mạnh từ trời cao
4.
Niềm hy vọng Nước Trời - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
5.
Cuộc sống chứng nhân – Thiên Phúc.
6.
Chúa Giêsu lên trời – R. Veritas
7.
Ra khơi – R. Veritas
8.
Không giải thích được - Achille Degeest
9.
Hướng lòng về thượng giới – Lm Ignatio Trần Ngà
10.
Chúa tin tưởng chúng ta.
11.
Hãy mang Chúa đến cho nhân trần
12.
Thời kỳ của Giáo Hội – Flor McCarthy.
13.
Suy niệm của R. Gutzwiller
14.
Chúa lên trời
15.
Chứng nhân
16.
Chúa lên trời
17.
Chúa lên trời - Lm. Phạm Thanh Liêm
18.
Lên trời
19.
Chứng nhân
20.
Nước trời
21.
Chứng nhân Nước Trời – Lm. Bùi Quang Tuấn
22.
Chú giải của Noel Quesson
23.
Chú giải của Fiches Dominicales
1. Bàn tay Chúa.
Người
ta kể rằng: sau thế chiến thứ hai, một toán lính đồng
minh đi giúp các người dân xây dựng lại cuộc sống
trên đống gạch hoang tàn đổ nát. Họ làm lại nhà cửa,
sửa chữa ngôi nhà thờ trong làng. Nhưng đến khi dựng
tượng Chúa, thì toán lính không tìm đâu ra hai bàn tay
của pho tượng đã bị bọm đạn cắt cụt. Tìm kiếm
suốt ngày trong đám xà bần mà cũng chẳng thấy. Toán
lính bèn chịu thua. Viên sĩ quan viết vào pho tượng câu
này: Dân làng sẽ thay Chúa làm những công việc mà đáng
lẽ hai bàn tay Chúa sẽ làm.
Một
người khốn khổ nằm chờ chết bên vệ đường. Chúa
xót thương người ấy, nhưng Chúa lại không thể gởi
chén cơm manh áo cho người ấy. Nhưng may quá, tôi không
phải là Chúa, tôi có thể đem cho người ấy một ly
nước, một chén cơm. Đó là chỗ duy nhất tôi hơn Chúa.
Trong
Phúc Âm chính Chúa cũng đã phán: Ta
đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho
uống, Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, Ta bị đau yếu
và bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm.
Chúa có thể làm nên cơm gạo cho người nghèo nhưng Chúa
lại không thể đưa cơm gạo ấy cho họ được. Ngài
phải nhờ đến đôi bàn tay của chúng ta.
Đó là
những suy tư tôi đọc thấy trong một cuốn sách. Nghe qua
thì rất táo bạo, nhưng đã nói lên một sự thật rất
sâu xa, đó là Chúa dùng bàn tay chúng ta để ban phát
những quà tặng, để xoa dịu những nỗi khổ đau cũng
như để nâng đỡ và khích lệ cho những người chung
quanh.
Trong
chương trình cứu độ của Chúa, phần đóng góp của con
người cũng thật là quan trọng như lời thánh Augustinô
đã nói: Chúa sẽ không thế nào cứu chuộc được chúng
ta nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn. Chúa
đã chịu chết một lần trên cây thập giá và đã làm
nên kho tàng ơn cứu độ. Thế nhưng Chúa muốn chúng ta
cộng tác với Ngài, để phân phát nguồn ơn sủng ấy
cho anh em đồng loại. Hay nói một cách khác cuộc sống
của người Kitô hữu, phải là một sự nối tiếp công
trình cứu độ của Đức Kitô. Bản thân chúng ta phải
kéo dài sự hiện diện của Chúa cho đến tận cùng thời
gian.
Cũng
chính vì thế, trước khi về trời, Chúa đã truyền cho
các môn đệ: Đức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày
thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Ngài mà
rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê rusalem, kêu gọi
họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng
nhân về những điều này. Và như vậy, Chúa muốn chúng
ta cộng tác với Ngài đễ đem Tin Mừng cứu độ đến
cho mọi người. Bởi đó, chúng ta phải sống thế nào để
người khác khi nhìn vào chúng ta sẽ nhận ra sự hiện
diện đầy yêu thương của Chúa.
2. Chúa lên trời
Chiều
thứ năm tuần thánh, sau khi rời phòng tiệc ly, Chúa Giêsu
đã dẫn các môn đệ theo con đường Bêtania để lên núi
Cây Dầu. Và tại đây, Ngài đã phải trải qua một cơn
hấp hối đầy cay đắng, đến nỗi mồ hôi máu chảy
xuống…
Rồi
ngày hôm nay, Ngài đã đi lại con đường ấy, cũng để
tiến đến núi Cây Dầu. Và tại đây, Ngài đã gặp gỡ,
đã vĩnh biệt các môn đệ, trước khi Ngài được đưa
lên trời dưới mắt các
ông.
Từ đó,
chúng ta nhận thấy: Cùng một địa điểm, nhưng có những
khác biệt và tương phản. Thực vậy, lần trước Ngài
đến để thực hiện thánh ý Chúa Cha, đó là chịu chết
trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Lần sau Ngài
đến trong vinh quang như một Đấng đã chiến thắng.
Tôi
nghĩ rằng đó chính là hình ảnh, là con đường, mà mỗi
cá nhân chúng ta cũng như toàn thể Giáo Hội, sẽ phải
dấn thân vào trong thời điểm hiện nay.
Đúng
thế, có những lúc Giáo Hội phải lên núi Cây Dầu để
làm quen với thập giá, nếu muốn được chiêm ngưỡng
vinh quang phục sinh. Đọc lại Phúc Âm chúng ta sẽ thấy
rõ được điều ấy.
Thực
vậy, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ điều gì trước
khi vĩnh biệt họ? Tôi xin thưa: Ngài đã nhắc tới cái
chết và sự sống lại của Ngài nhằm tha thứ tội lỗi.
Rồi Ngài phán: Từ nay họ sẽ là chứng nhân của mầu
nhiệm vượt qua, bằng các loan báo Tin mừng hoán cải ở
mọi nơi, trong mọi lúc và trên mọi nẻo đường trần
gian. Và một điều quan trọng khác nữa, đó là họ sẽ
phải sống mầu nhiệm thập giá để làm chứng cho Đức
Kitô.
Vì thế,
chúng ta không lấy làm lạ khi thấy thiên thần đã nhắc
khéo các môn đệ:
- Này các bạn xứ Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời làm chi.
Hay nói
cách khác:
- Các bạn hãy về đi. Về với sứ mạng vừa mới được trao phó.
Đúng
thế, con người chúng ta tiến bước, đôi mắt ngước
nhìn trời, nhưng bàn chân thì lại đạp đất. Đó là
một hình ảnh trung thực nhất về Giáo Hội nói chung và
về mỗi người chúng ta nói riêng. Tuy nhiên, nhiều lúc
chúng ta lại có khuynh hướng ly khai, tách biệt hai yếu
tố căn bản ấy và chúng ta đã tạo nên một nếp sống
chông chênh, không vui lòng Chúa, mà cũng chẳng đem lại
lợi ích gì cụ thể cho bản thân mình.
Nếu
ngày xưa Đức Kitô đã phải vác thập giá để tiến tới
Phục sinh, thì hôm nay cá nhân chúng ta cũng như toàn thể
Giáo Hội cũng phải bước đi trên con đường ấy, bởi
vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đương
về vinh quan và thập giá là đương dẫn tới phục sinh.
Vì thế,
hãy chập nhận thập giá đời thường là những hy sinh
gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống, để rồi
trong ngày sau hết, chúng ta cũng sẽ được Chúa đưa lên
quê hương Nước trời, chia sẻ niềm hạnh phúc vinh quang
với Ngài.
3. Sức mạnh từ trời cao
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy
Niệm
Đức
Giêsu được đưa về trời khiến cả nhân loại hoan hỷ.
Con Thiên Chúa làm người, long đong với phận người, nếm
cái nghèo đói, nhọc nhằn, nếm nỗi khổ đau, cay đắng.
Cuộc đời Ngài tưởng như là một thất bại ê chề.
Nhưng rồi Ngài đã được phục sinh, đã hiện ra, và
được khải hoàn đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
Ngài từ
Cha mà đến và lại trở về với Cha. Sứ mạng Cha giao,
tuy khó khăn, nhưng Ngài đã hoàn tất.
Ta cần chiêm ngắm giây phút Ngài được siêu thăng. Ngài
giơ tay chúc lành cho các môn đệ như vị thượng tế.
Ngài về trời trong tư thế đang chúc lành.
Chúc
lành cho trái đất mà Ngài đã sống.
Chúc
lành cho mọi người là người như Ngài.
Hôm nay
chúng ta vui vì biết mình có người Anh trưởng đã được
nâng lên đến tột đỉnh vinh quang thần linh.
Con người đầu tiên với tất cả nhân tính như ta đã
được siêu tôn trên trời, dưới đất và nơi âm phủ.
Sự
thành công của Đức Giêsu là niềm hy vọng cho ta.
Cùng đi với Ngài trên con đường cheo leo ấy, chúng ta
tin mình sẽ đến nơi mà Ngài đã đến.
Đức
Giêsu về trời sau khi hoàn thành sứ vụ dưới đất.
Ngài muốn ta trưởng thành và gánh lấy trách nhiệm.
Bước chân Ngài mới chỉ đi hết xứ Palestina bé nhỏ.
Còn cả một thế giới mênh mông ngút ngàn. Còn bao dân
tộc xa gần chưa hề nghe rao giảng. Ngài muốn ta làm
chứng nhân của Ngài đến tận thế.
Thiên
thần bảo chúng ta không được khoanh tay nhìn trời, vì
còn quá nhiều việc phải làm trước mắt. Chúng ta phải
nhiệt tình xây dựng quê hương này huynh đệ hơn, công
bằng hơn, bác ái hơn, văn minh hơn, để nó xứng đáng
đón ngày Ngài trở lại.
Chúng
ta không được khoanh tay nhìn trời, nhưng lòng chúng ta
lại phải thường xuyên hướng lên trời. Xây dựng trái
đất mà không hướng lòng về trời, thì sẽ không tìm
được câu trả lời tối ưu.
Chúng
ta cần sức mạnh từ trên cao của Thánh Thần để giải
quyết những vấn đề chằng chịt của trái đất: ma
túy, trụy lạc, tham nhũng, ô nhiễm, nghèo đói và nhất
là vấn đề xây dựng con người.
Khoa học
kỹ thuật tiến bộ làm cuộc sống nhẹ nhàng nhưng cũng
thường làm con người thêm nặng nề. Con người như bị
dính vào những sản phẩm mình tạo ra, bị nô lệ cho
những nhu cầu không có thực. Trái đất này vẫn có sức
thu hút ghê gớm khiến ta muốn chọn nó làm quê hương
vĩnh hằng, và quên rằng quê thật của ta ở trên trời
cao (Pl 3,20).
“Hãy
tìm kiếm những điều trên cao” (Cl 3,1). Đừng dập tắt
nỗi khát khao những điều cao cả. Ước gì Chúa Giêsu,
Đấng được đưa lên cao, kéo ta lên khỏi cái tầm
thường ô trọc mỗi ngày.
Gợi
Ý Chia Sẻ
- Tiền bạc, tiếng tăm, khoái lạc làm người ta nặng nề. Còn bạn, bạn thấy mình nặng nề vì điều gì? Có cách nào thoát được không?
- Đời sống là một nỗ lực “bay lên cao” khỏi sức kéo xuống của vật chất và của cái tôi trì trệ. Có khi nào bạn được nhẹ nhàng mà bay lên khỏi sức kéo đó không?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn
phận người ở đó. Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và
hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy
chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương
đến hiến mạng cho anh em.
Khi
ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình
được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và
chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy
Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất
vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời
cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước
chân chúng con tiến về bên Chúa. Ước gì qua cuộc sống
hằng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời
đang tỏ hiện.
4. Niềm hy vọng Nước Trời - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Có
nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất
và con người chỉ thuộc về mặt đất. Nhưng không phải
thế. Hôm nay, Chúa Giêsu lên trời là một bằng chứng
cho niềm hy vọng của ta.
Việc
Chúa Giêsu lên trời bảo cho ta biết rằng ngoài trái đất
còn có trời. Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp còn có cõi
thần linh bao la. Ngoài cuộc sống trần gian mau qua còn có
cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.
Chúa
Giêsu về trời là niềm hy vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ
được về trời với Người. Vì chính Người đã hứa:
“Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu,
anh em cũng ở đó với Thầy”.
Chúa
Giêsu đã liên kết ta thành một thân thể với Người.
Người là đầu. Chúng ta là chi thể. Đầu tiến đến
đâu thì chi thể cũng sẽ tiến đến đấy.
Chúa
Giêsu dạy ta biết rằng ta là con của Thiên Chúa Cha, Đấng
ngự trên trời. Con sẽ được ở trong nhà cha mẹ. Chúng
ta sẽ được ở nhà Cha trên trời là tự nhiên.
Tuy
nhiên Chúa Giêsu chỉ về trời sau khi đã hoàn thành nhiệm
vụ Đức Chúa Cha trao phó cho Người ở trần gian. Nhiệm
vụ đó là loan báo cho mọi người biết Chúa là Cha yêu
thương mọi người. Nhiệm vụ đó là làm chứng về tình
yêu thương của Cha đối với mọi người.
Hôm
nay, trước khi về trời, Chúa Giêsu uỷ thác nhiệm vụ
đó lại cho ta. Ta phải tiếp nối sứ mạng của Chúa
Giêsu loan báo Tin Mừng yêu thương cho mọi người. Đem
niềm hy vọng đến cho kiếp người.
Với
niềm hy vọng đó, người Kitô hữu chân đạp đất nhưng
lòng vẫn hướng về trời cao. Niềm hy vọng đó giải
thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất nhờ đã biết rõ vật
chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm hy
vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta
hiểu rằng định mệnh loài người không phải như loài
súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng đó
đó làm cho cuộc sống của ta có ý nghĩa, vì Chúa tạo
dựng nên con người không phải để con người tàn lụi
đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát
triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án
vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được
tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng.
Niềm hy vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân
tận tâm hơn vì đó chính là sứ mang Chúa trao phó. Niềm
hy vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội
tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được
vào Nước Trời.
Lạy
Chúa, xin giúp con chu toàn nhiệm vụ ở trần gian để sau
này con được về trời với Chúa. Amen.
KIỂM
ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Ham hố tiền bạc, danh vọng, chức quyền, khoái lạc làm đời sống ta nặng nề, không vươn lên cõi tâm linh được. Bạn thấy mình bị nặng nề về ham mê nào?
- Đời sống là một nỗ lực bay lên cao. Có khi nào bạn cảm thấy mình thoát khỏi những ràng buộc tầm thường để nhẹ nhàng bay lên không?
- Đời sống là một bổn phạn phải chu toàn. Bạn nghĩ gì về điều này?
5. Cuộc sống chứng nhân – Thiên Phúc.
(Trích
trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Báo
‘Le Figaro’ đăng trả lời phỏng vấn của tổng thống
Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:
Hỏi:
Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho
biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở
Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng ông lại là cựu
sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái
ngược đó?
Trả
lời:
Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược.
Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái
chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà
nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước
Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống,
nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị
văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như
cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên
thủng nhựa đường để tồn tại.
Mẹ
tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ
không phải là không nguy hiểm thời Liên Xô trước đây.
Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà
thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi
cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?
Trước
khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ
mạng cao cả: “Phải
nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”.
Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận
cùng trái đất, rao giảng danh Người cho đến tận thế.
Tổng
thống Nga Putin quả là một chứng nhân anh dũng. Ông đã
công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo, sống đạo.
Ông đã công bố trước báo chí: “Tôi tự hào là một
người tín hữu… Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần
và sự bình an trong tâm hồn”.
Khi Chúa
về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải ra đi. Các
ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng
nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang
được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về
với Cha.
Khi Chúa
về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải xuống núi.
Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh
đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới
mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.
Thật
là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các tông đồ đi
rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng
đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân
trên hành tinh này chưa đón nhận Tin Mừng.
Đã qua
hơn 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục Sinh còn
quá nhiều người chưa biết tới! Phải chăng chúng ta
quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện
rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Chúa Kitô
cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào
chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về
Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert
Peyriguere đã viết: “Có nhiều tông đồ nói về Đức
Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết
sống vì Người”.
Con
người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc
thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận
mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích
chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng
chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin
đã nói một câu đầy sắc bén: “Người ta chỉ có thể
tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ
loan báo Người”.
Lạy
Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của
Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin
Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng
con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi
chúng con.
Xin
cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng
lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng
trái tim tràn đầy tình yêu Chúa. Amen.
6. Chúa Giêsu lên trời – R. Veritas
(Trích
trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’)
Một
thi sĩ người Đức có viết vần thơ sau đây: "Bên
trên thế giới này là mây trời, mây trời thuộc về thế
giới. Bên trên trời là hư vô". Vần thơ này được
hàng triệu người trên thế giới chứng thực mỗi ngày
khi ngồi trong các máy bay khổng lồ, mà mỗi chuyến bay
chở được mấy trăm hành khách. Các loại máy bay này
thường bay trên độ cao hơn 10,000 mét, nghĩa là trên các
tầng mây. Và quả thật, trên độ cao ấy, du khách chỉ
thấy bên dưới là mây, trước mắt và chung quanh là chân
trời xanh dài vô tận và bên trên chỉ là khí, không có
gì khác.
Tuy
nhiên, qua khẳng định trên đây, thi sĩ người Đức ám
chỉ một sự kiện khoa học, ông muốn diễn tả xác tín
vô thần của ông là không tin có Thiên Chúa, không tin có
quê trời, không tin có thiên đàng và cuộc sống mai sau.
Cuộc đời con người kết thúc với cái chết và bên kia
cái chết chỉ là hư vô. Nghĩa là thi sĩ gián tiếp khẳng
định rằng, cuộc đời con người vô nghĩa, do đó cũng
không cần phải sống tốt với tha nhân hoặc ăn ngay ở
lành hay sống đạo đức luân lý làm gì, cứ việc tham
ô, gian ác, bóc lột người khác, cũng không cần phải
cầu nguyện làm gì, bởi vì nó chỉ là đối thoại với
hư vô, và thế giới này chỉ là hư vô bởi vì không có
tương lai.
Nhưng
xác tín như vậy là thi sĩ đã rơi vào sự lầm lẫn lớn
nhất. Bởi vì trong ngày lễ Thăng Thiên, Chúa Giêsu khẳng
định với chúng ta rằng sau cái chết cuộc sống mới
thực sự bắt đầu và bên trên tầng mây là tất cả.
So sánh
trình thuật biến cố Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh lên trời
trong các bản văn Tin Mừng, chúng ta hiểu ra ngay một sự
khác biệt trong Phúc Âm thánh Gioan: cuộc đời Chúa Giêsu
tập trung vào ngày sau thứ bảy là ngày lễ Vượt Qua,
ngày Chúa Giêsu sống lại, lên trời và trao ban Chúa Thánh
Thần cho các môn đệ. Đối với thánh Gioan, Thiên Chúa
tự tỏ lộ mình cho nhân loại trong con người và trong
mầu nhiệm của Chúa Giêsu, và Giáo Hội hay cộng đoàn
các môn đệ là hoa trái của sự mạc khải ấy.
Phúc Âm
thánh Matthêu trái lại, là Emmanuel: "Thiên Chúa ở
cùng chúng ta", nghĩa là theo thánh nhân, Chúa Giêsu
luôn luôn sống hiện diện và hoạt động sâu thẳm giữa
cộng đoàn Giáo Hội. Ngài tự đồng hóa mình với mọi
người. Do đó, mỗi việc làm cho một trong các thành phần
của cộng đoàn Giáo Hội là làm cho chính Chúa Giêsu. Nói
cách khác, theo thánh Matthêu, Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh
luôn hiện diện trong cộng đoàn thân mình mầu nhiệm của
Ngài, cho dù cộng đoàn đó có bé nhỏ và có sống tại
nơi hẻo lánh xa xôi ở tận chân trời góc biển nào trên
thế giới này đi chăng nữa thì vẫn có Chúa hiện diện
luôn luôn: "Ở đâu có hai, ba người tụ họp lại
nhân danh Thầy thì Thầy ngự giữa họ". Chủ đích
thần học này giải thích tại sao thánh Matthêu đã không
kết thúc Phúc Âm với trình thuật Chúa Giêsu rời bỏ
cộng đoàn môn đệ về trời như hai thánh sử Marcô và
Luca. Phúc Âm thánh Matthêu kết thúc Phúc Âm với lời
Chúa Giêsu trang trọng khẳng định với các môn đệ
rằng: "Ngài sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến
tận thế".
Thánh
sử Luca thì có một quan niệm thần học khác, đối với
thánh nhân thì thời gian sau khi Chúa Giêsu về trời là
thời gian của Giáo Hội. Thánh Luca coi việc cộng đoàn
Giáo Hội tiếp nối sự loan truyền Tin Mừng của Chúa
Giêsu như giai đoạn cuối cùng trong lịch sử cứu độ.
Nếu
Kinh Thánh Cựu Ước đã tập trung lịch sử cứu độ vào
dân Israel và vào lời hứa của Thiên Chúa, thì Kinh Thánh
Tân Ước tập trung lịch sử cứu độ vào Chúa Giêsu và
vào ngày hôm nay của Chúa Giêsu như thời điểm thành
toàn lời Thiên Chúa đã hứa với dân Israel xưa kia. Lời
Thiên Chúa thực hiện trong cộng đoàn Giáo Hội giờ đây
phải được tiếp tục thành toàn và ơn cứu độ phải
được mọi thành phần Giáo Hội tiếp tục loan truyền
cho mọi dân tộc khác. Đó là nội dung của sách Tông Đồ
Công Vụ, trong đó thánh Luca tường thuật công tác truyền
giảng mà Chúa Giêsu là trung tâm điểm và là người khởi
xướng và giờ đây cộng đoàn Giáo Hội tiếp tục đẩy
mạnh dưới sự thúc đẩy, dẫn dắt của Chúa Thánh
Thần.
Trong
một nghĩa nào đó, biến cố Chúa Giêsu lên trời cần
thiết cho việc khai mạc sứ mệnh của Giáo Hội. Chúa
Giêsu Phục Sinh lên trời nhưng giờ đây là thời gian
Ngài hoạt động qua và trong cộng đoàn Giáo Hội. Sự
kiện Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không
hiện diện trong thế giới này, nhưng Ngài sẽ trở lại
trần gian. Nhưng trong thời gian giữa hai khoảng cách đó,
Ngài sống ngoài lịch sử, nhưng hiện diện trong lịch sử
qua cộng đoàn Giáo Hội. Nước Thiên Chúa thực tại cuộc
sống siêu việt vĩnh cửu, vẹn toàn mai sau tỏ hiện dần
trong Giáo Hội. Trong nỗ lực, Giáo Hội làm chứng cho
Chúa Giêsu và rao truyền Tin Mừng của Chúa.
Thánh
sử Luca đã thật khéo léo khi nối liền thời gian hoạt
động của Giáo Hội với ngày hôm nay của Chúa Giêsu và
giải thích nó như là thời gian của ơn thánh cứu độ.
Biến cố Chúa Giêsu lên trời như ghi trong sách Tông Đồ
Công Vụ và sách Phúc Âm phải được hiểu dưới ánh
sáng của lịch sử cứu độ: mầu nhiệm lên trời giải
thích tại sao lại có Giáo Hội. Giáo Hội hiện diện
giữa lòng xã hội và loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi
người.
Nói
cách khác, qua sách Tông Đồ Công Vụ và sách Phúc Âm,
thánh sử Luca muốn chứng minh cho chúng ta thấy chương
trình Thiên Chúa đối với loài người và thế giới đã
được Chúa Giêsu thực hiện và thành toàn, và giờ đây
được tỏ hiện từng bước và kéo dài trong cuộc sống
của Giáo Hội.
Trong
trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời, thánh sử Luca
là người duy nhất có can đảm dùng động từ ám chỉ
sự chia lìa khi biết Chúa Giêsu Kitô tách rời khỏi đoàn
môn đệ, và chương 24 mở đầu trình thuật một ngày
sống của Chúa Giêsu cũng như của cộng đoàn các môn đệ
bằng cách ghi nhận sự vắng mặt của Chúa Giêsu. Nhưng
tiếp sau đó Chúa Giêsu lại hiện diện giữa cộng đoàn,
Ngài đồng hành, đàm đạo và dùng bữa tối với hai môn
đệ trên đường Emmau, và giờ đây trình thuật kết
thúc với Chúa Giêsu lại tự tỏ hiện ra.
Tuy
nhiên, sự chia tay này tại Bethania không khiến cho các môn
đệ buồn sầu hay chán nản. Trái lại họ cùng nhau trở
về Giêrusalem lòng tràn đầy vui sướng.
Thánh sử Luca không giải thích tại sao đoàn môn đệ giờ
đây phải xa Thầy mình mà lại sướng vui như vậy, nhưng
chắc chắn các môn đệ đã khám phá ra hay ít nhất đã
trực giác được chuyện gì đó, nghĩa là các vị đã
hiểu rằng, Chúa Giêsu tuy đã tách rời khỏi họ, nhưng
vẫn luôn hiện diện bên họ.
Trong
trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời còn có một
điểm đặc biệt khác nữa, đó
là các môn đệ đang phủ phục xuống thờ lạy Ngài thì
Chúa Giêsu đã rời khỏi họ lên trời, đồng thời Ngài
giơ tay ban phép lành cho họ.
Cử chỉ này của Chúa Giêsu cho thấy, Ngài hành động
như là Thầy của các môn đệ. Chúa của các tông đồ
là thủ lãnh của cộng đoàn dân riêng mới của Thiên
Chúa, giã từ cộng đoàn nhưng đồng thời Ngài mời gọi
mọi người ra đi chu toàn sứ mệnh mà họ đã được ủy
thác. Phép lành của Chúa Giêsu bảo đảm cho cộng đoàn
Giáo Hội mọi ơn cần thiết trong cuộc sống và sự tăng
trưởng của mình trong sứ mệnh loan truyền lịch sử cứu
độ.
Đặc
điểm thứ ba trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên
trời đó là thay vì ra đi khắp nơi loan truyền Tin Mừng
thì đoàn môn đệ vào
đền thờ Giêrusalem cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa.
Phúc Âm thánh Luca mở đầu với cảnh Thầy Zacharia dâng
hương cho Chúa trong đền thờ, giờ đây kết thúc với
lời chúc tụng của đoàn tông đồ. Giêrusalem là trung
tâm điểm của lịch sử cứu độ, là nơi lịch sử cứu
độ thành toàn, đồng thời là nơi phát xuất sứ mệnh
truyền giáo của Giáo Hội.
Hình
ảnh Giáo Hội truyền giáo quanh quẩn trong đền thờ,
trong lời cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa xem ra hơi
lạ, nhưng thật ra sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội
sẽ đem lại nhiều hoa trái khi cộng đoàn biết bám chặt
vào Chúa, dán mắt nhìn lên Chúa, thân tình thưa chuyện
với Chúa để kín múc mọi ơn thánh và nghị lực cần
thiết cho sứ mệnh loan báo lời Ngài để kéo đổi phúc
lành của Thiên Chúa xuống trên mọi tâm hồn và phản
ảnh gương mặt cũng như giáo huấn của Chúa một cách
tinh tuyền, trung thực và sâu thẳm hơn.
Bởi vì
nếu không có phúc lành và ơn thánh Chúa trợ lực sẽ
không có sự sống, sẽ không có ơn hoán cải và biến
đổi con tim và công tác truyền giáo của Giáo Hội không
sinh hoa trái phong phú. Càng hoạt động nhiều, Giáo Hội
càng phải sống chiều kích chiêm niệm và đối thoại
thân tình với Chúa nhiều hơn.
Đây
cũng là lý do giải thích tại sao trước khi về trời,
Chúa Giêsu đã dạy dỗ các môn đệ nhiều điều để
giúp họ được sứ mệnh loan báo Tin Mừng, và từ nay họ
phải đảm trách thay Ngài. Lời các thiên thần nhắc nhớ
có các ông biết sứ mệnh rao truyền Lời Chúa không cho
phép các vị đứng nhìn trời, nhìn đất mơ mộng nuối
tiếc hay chỉ lo lắng cho các dịch vụ phụng tự quanh
quẩn trong bốn bức tường nhà thờ hoặc đáp ứng nhu
cầu của linh hồn mà thôi, mà phải xuống núi, nhập
thể, đem Chúa vào đời loan truyền ơn cứu độ và hoạt
động thăng tiến con gnười toàn diện như Chúa Giêsu đã
làm xưa kia.
7. Ra khơi – R. Veritas
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Dịp Lễ
Thăng Thiên năm 2001 Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã
chia sẻ: "Chúng ta được qui tụ quanh bàn thờ Chúa
để cử hành việc Chúa lên trời. Chúng ta đã nghe được
Lời Chúa: "Các con sẽ nhận lấy sức mạnh của Chúa
Thánh Thần, Đấng sẽ ngự xuống trên các con và các con
sẽ là những chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng
trái đất".
Từ hai
ngàn năm qua, những lời này của Chúa Phục Sinh thôi thúc
Giáo Hội tiến ra khơi, tiến vào trong lịch sử của con
người. Những lời này làm cho Giáo Hội trở nên một
người luôn đồng hành với tất cả mọi thế hệ, làm
cho Giáo Hội trở nên như men, làm dậy nên những hạt
văn hoá trên thế giới. Hôm nay, chúng ta nghe lại những
lời trên để với sức mạnh được canh tân, chúng ta
đón nhận mệnh lệnh của Chúa "Hãy ra khơi",
mệnh lệnh mà Chúa đã nói với thánh Phêrô. Đây là một
mệnh lệnh và tôi đã muốn làm vang dội lại trong Giáo
Hội qua bức tông thư khởi đầu Ngàn Năm Mới. Và đây
là mệnh lệnh mặc lấy một ý nghĩa sâu xa hơn theo ánh
sáng của ngày lễ trọng Chúa Thăng Thiên. "Hãy ra
khơi" ra nơi mà Giáo Hội cần tiến đến, không phải
chỉ là một sự dấn thân truyền giáo mạnh mẽ nhưng
nhất là và còn là một sự dấn thân mạnh mẽ sống
chiêm niệm. Như những tông đồ, những kẻ đã được
chứng kiến biến cố Chúa lên trời, chúng ta cũng được
mời gọi hãy hướng cái nhìn lên dung mạo của Chúa Kitô
được hiển vinh trong vinh quang Thiên Chúa Cha. Chắc chắn
rằng nhìn ngắm trời cao không có nghĩa là quên đi trần
gian này. Và nếu rủi gặp phải cám dỗ, chúng ta chỉ
cần lắng nghe lại lời hai người mặc áo trắng của
đoạn Phúc Âm hôm nay nói rằng: "Tại
sao các ông còn nhìn trời?"
Việc
cầu nguyện chiêm niệm Kitô không làm cho chúng ta tránh
khỏi việc dấn thân
vào trong lịch sử. "Trời", nơi Chúa Giêsu tiến
vào không phải là một sự xa vắng nhưng như là một màn
che khuất và là nơi lưu giữ một sự hiện diện. Đó là
sự hiện diện của Chúa, một sự hiện diện không bao
giờ bỏ rơi chúng ta cho đến khi Chúa trở lại trong vinh
quang. Trong khi đó, thời giờ chúng ta sinh sống đây là
thời giờ rất đòi hỏi. Đòi hỏi chúng ta phải làm
chứng bởi vì nhân danh Chúa Kitô, sự ăn năn hối cải
và sự tha thứ tội lỗi phải được rao giảng cho tất
cả mọi dân nước. Và chính để làm sống lại ý thức
này mà tôi đã muốn triệu tập hội nghị Hồng Y đặc
biệt được bế mạc hôm nay (thứ Năm 24/05/2001). Các vị
Hồng Y, từ các nơi trên thế giới mà tôi xin kính chào
với lòng mộ mến huynh đệ. Các ngài trong những ngày
qua đã hội họp với tôi để bàn về một vài đề tài
trong số những đề tài nổi bật nhất của công việc
rao giảng Phúc Âm và làm chứng Kitô trong thế giới hôm
nay, vào khởi đầu Ngàn Năm Mới. Đây, đối với chúng
tôi, là giây phút sống hiệp thông, trong đó chúng tôi
cảm nghiệm được một phần nào của niềm vui đã tràn
ngập tâm hồn các tông đồ ngày xưa, sau khi Chúa Phục
Sinh chúc lành cho các ngài và tách rời ra khỏi các ngài
để lên trời. Thật vậy, thánh Luca đã ghi lại rằng:
"Sau khi bái lạy tôn thờ Chúa, các tông đồ trở lại
Giêrusalem với niềm vui lớn lao và các ngài luôn ở trong
đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa."
Và tiếp
sau trong bài giảng, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã
khai triển thêm bản chất cũng như sinh hoạt truyền giáo
của Giáo Hội, và cuộc hội Hồng Y cũng được Đức cố
Giáo Hoàng đặt trong viễn tượng này: "Thực hiện
sự hiệp thông và hiệp nhất trong Giáo Hội, để Giáo
Hội có thể rao giảng Phúc Âm Chúa một cách đáng tin
hơn cho mọi anh chị em."
Trong
thánh lễ Chúa Thăng Thiên và trong giây phút này, Đức cố
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cho chúng ta biết ý nghĩa của
biến cố quan trọng này: Không phải Chúa lên trời để
bỏ chúng ta, mà Ngài bước sang một sự hiện diện mới
với chúng ta trong Chúa Thánh Thần. Ngài luôn ở cùng
chúng ta luôn mãi cho đến tận cùng. Và Ngài muốn mỗi
người chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân
Thánh Thần của Ngài để làm chứng cho Ngài trong môi
trường chúng ta sinh sống.
Từ
Chúa Nhật này cho tới Chúa Nhật Chúa Thánh Thần hiện
xuống, chúng ta hãy dành thời giờ để nhìn lại cuộc
sống của mình, mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa Thánh
Thần và sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần
để làm chứng cho Chúa đến mức độ nào rồi. "Thầy
ở cùng các con mọi ngày cho đến tận cùng và các con sẽ
làm chứng cho Thầy khắp nơi trên mặt đất này".
Xin
Chúa gìn giữ chúng ta vững mạnh trong đức tin để chúng
ta có thể làm chứng cho Chúa mọi nơi mọi lúc.
8. Không giải thích được - Achille Degeest
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đức
Giêsu đã thuyết phục các tông đồ tin rằng Người đã
sống lại. Chúa mở tâm trí cho các ông hiểu ý nghĩa
Kinh Thánh và thấy mình đang đi vào kế hoạch liên tục
của Thiên Chúa. Các ông sắp làm chứng cho Đấng được
loan báo trong Kinh Thánh, Người đã thật sự sống với
các ông cuộc đời dưới thế của Người và sắp tiếp
tục công cuộc cứu độ qua Giáo Hội, đem lợi ích cho
khắp thế giới. Các ông sẽ lãnh nhận ơn Chúa Thánh
Thần đến hoàn tất sự hiểu biết của mình, như Đức
Giêsu đã hứa. Lúc đó sẽ thấu hiểu ý nghĩa khổ nạn
và Phục Sinh, hơn nữa sẽ khám phá Phúc Âm được dùng
vào một công cuộc có tầm mức bao la đến chừng nào.
Các ông sẽ không choáng váng tê liệt, sẽ thật sự trở
nên tông đồ vì mặc lấy sức mạnh từ Trên ban cho.
Chúng ta không ngạc nhiên đọc câu: Họ trở lại
Giêrusalem, lòng mừng khôn xiết. Như vậy, chứng kiến
Chúa lên trời, các môn đệ tuyệt nhiên không kinh ngạc,
trái lại vui mừng vô hạn. Tại sao? Ví các ông chắc hẳn
bắt đầu hiểu rõ bí nhiệm về sự hiện diện vô hình
của Thày. Chúng ta dừng lại để suy niệm về việc Chúa
chúc lành và niềm hân hoan không giải thích được của
các môn đệ.
1)
Giơ tay, Chúa chúc lành cho họ.
Các môn
đệ lãnh nhận chúc lành của Thày, coi đó là cử chỉ
của Thiên Chúa kết thúc một sự hoàn tất và mở màn
cho một sự bắt đầu. Hoàn tất, vì thời gian Chúa sống
giữa thế gian đã chấm dứt. Chúa vào vinh quang của Chúa
Cha. Tác động của Đức Giêsu hiện diện hữu hình không
còn nữa, sắp chuyển sang một thể thức tác động khác,
đồng thời các môn đệ bắt đầu một cuộc trông đợi.
Chúc lành của Chúa làm dậy lên trong các môn đệ một
nghị lực sắp lớn mạnh nảy nở. Cử chỉ Chúa giơ tay
ban phép lành biểu hiện sức mạnh của sự sống, của
lòng bác ái và một nghị lực tràn ngập tâm hồn các
ông, sắp biến đổi và hướng dẫn các ông thành toàn
bản ngã và sứ mạng. Một ví dụ thực tế: Chúng ta
nhắc lại rằng chúc lành nhân danh Đức Kitô của linh
mục chủ tế lúc Thánh Lễ hoàn tất, biểu hiện sự
hoàn tất và sự phái đi. Chúng ta có nhiệm vụ hoàn tất
trong đời sống thực tế ơn lành nhận được trong Thánh
Lễ, và chúng ta được phái đi vào thế giới làm chứng
cho Đức Kitô.
2)
Các môn đệ vui mừng mặc dầu Đức Giêsu vừa biến đi
trước mắt các ông.
Chúng
ta chúng ta nghĩ rằng các ông được sinh ra trong tình yêu
đích thật của Thày, các ông không hề nghĩ về thân
phận mình theo tính ích kỷ thường tình, trái lại được
vui mừng nhìn Thày đi vào vinh quang của Chúa Cha. Tuy nhiên
cho dầu tình yêu đầy vị tha tới đâu thì cũng phải có
sự hiện diện của Thày. Có thể các môn đệ làm một
cuộc thí nghiệm mới về sự hiện diện vô hình của
Thày. Chúa về trời trở nên gần gụi các ông hơn trước.
Chúa biểu lộ sự hiện diện trong quyền năng thần thánh
của Người, Chúa đem Thần Khí vào tâm hồn các ông. Tới
đây chúng ta thấy vai trò đức tin là cần thiết. Điều
tốt là các môn đệ nay trở thành chứng nhân cho Chúa
phải tham dự vào kinh nghiệm đức tin mà tất cả chúng
ta đều phải có, một niềm tin trong hân hoan không giải
thích được, trải qua mọi gian nan thử thách. Niềm tin
ấy sinh ra một niềm trông cậy hân hoan hơn nữa, vì lẽ
ngày Chúa lên trời sẽ đưa tới ngày chúng ta sẽ vô
cùng hân hoan, Chúa ở đâu, chúng ta cũng sẽ ở đó.
9. Hướng lòng về thượng giới – Lm Ignatio Trần Ngà
(Trích
trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Khi
con người chỉ biết nhìn xuống...
Người
đàn bà có biệt danh là "bà lom khom" đã trở
thành hình ảnh quá quen thuộc đối với những ai hay lui
tới những công viên của thành phố nầy. Đã lâu lắm
rồi, từ sáng tới chiều, ngày nầy qua ngày khác, người
ta thấy bà lầm lũi cúi mặt xuống đất để tìm nhặt
những đồng tiền xu mà khách nhàn du đánh rơi đâu đó
trong các công viên. Người dân trong khu vực gọi bà là
"bà-lom-khom" vì hình như mắt bà rất kém, phải
khom gập người xuống mới có thể thấy được những
đồng tiền rơi rớt đâu đó trong công viên. Hình như
nghề nầy đem lại cho bà nguồn thu nhập khá lớn, nên
ngày nào bà cũng khom người đi nhặt như con kiến cần
cù, như con ong kiên nhẫn nhất.
Vì
lúc nào bà cũng cúi gằm xuống đất, đôi mắt lúc nào
cũng đăm đăm nhìn xuống để tìm những đồng xu lẻ,
dần hồi cần cổ của bà cụp xuống, lưng còng hẳn đi
đến nỗi bà không còn ngửng lên nhìn trời được nữa.
Thế
là mặc dù kiếm được khá tiền, nhưng bà đã đánh mất
cuộc sống. Bà chỉ biết có mặt đất mà không biết có
bầu trời. Bà chỉ biết ky cóp những đồng tiền xu mà
chẳng biết gì đến thế giới chung quanh!
Hình
ảnh người đàn bà còng lưng trên đây là biểu tượng
cho những người chỉ biết có thế giới vật chất mà
đánh mất thế giới thiêng liêng.
Với
tầm nhìn hạn chế, con người chỉ thấy gần mà không
thể thấy xa, chỉ biết chú mục vào cuộc sống đời
nầy mà lãng quên cuộc sống đời sau, chỉ biết vun quén
của cải vật chất mà không lo làm giàu của cải thiêng
liêng; chỉ biết kiếm tìm lạc thú trần gian mà lãng
quên hạnh phúc đời đời... Họ chối bỏ Trời, quay
lưng lại với Thiên Chúa, khước từ thế giới thiêng
liêng!
Họ xem
mặt đất nầy là quê hương duy nhất, họ xem nấm mồ
như điểm đến cuối cùng của kiếp người. Cuộc đời
của họ được thi hào Nguyễn Du diễn tả cách bi thương:
"Trăm
năm còn có gì đâu
Chẳng
qua một nấm cỏ khâu xanh rì".
Như
thế, đối với người không tin thì sống là hành trình
tiến về ngôi mộ; còn đối với chúng ta, sống là hành
trình tiến về thiên quốc.
Viễn
tượng mới
Sự
kiện Chúa Giêsu lên trời mở ra cho loài người một viễn
tượng mới: Thế giới loài người không chỉ bó hẹp
trong khuôn khổ vật chất nhưng còn mở vào cõi vô biên.
Cuộc đời con người không chấm dứt trong nấm mồ hoang
nhưng vượt qua đó để tiến vào vĩnh cửu.
Như con
ve chui lên khỏi đất, lột bỏ chiếc vỏ chật hẹp để
đón chào thế giới mới, cất cao tiếng hát dưới ánh
nắng mặt trời, con người cũng được mời gọi hãy
vượt lên trên thế giới vật chất, đập bỏ lớp vỏ
vật chất bó chặt đời mình để vươn vai trở thành
tạo vật mới, sống đời sống mới.
Thánh
Phaolô nhắc nhở chúng ta hướng về đích xa:
"Quê
hương chúng ta ở trên trời"
(Philip 3, 20)
Thế
nên: "Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc
thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ
giới" (Col 3, 1-4). Vậy chúng ta đừng chỉ lo phần
xác mà quên mất phần hồn. Phải dành ưu tiên cho linh
hồn chúng ta, phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa. Chỉ dán
mặt xuống đất mà không biết ngẩng lên nhìn trời thì
vô cùng tai hại.
10. Chúa tin tưởng chúng ta.
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Có
một truyền thuyết xưa kia kể lại rằng: Khi Đức Giêsu
hoàn thành sứ mạng dưới thế, Ngài trở về trời và
được Thiên thần Gabriel đón tiếp. Gặp Chúa, thiên thần
lên tiếng hỏi ngay:
- Xin Chúa cho biết công trình của Chúa sẽ được tiếp tục như thế nào ở dưới thế?
Chúa
Giêsu trả lời:
- Ta đã chọn 12 Tông đồ, một nhòm môn đệ và một vài phụ nữ. Ta đã giao cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng đến tận cùng trái đất.
Nghe
Chúa trả lời như thế, thiên thần Gabriel hình như chưa
hoàn toàn thỏa mãn nên hỏi tiếp:
- Nhưng số môn đệ ít ỏi đó thất bại thì Chúa có dự trù nào khác không?
Chúa
Giêsu mỉm cười và dường như muốn biểu đồng tình là
thiên thần Gabriel đã có lý khi nghi ngờ, tuy nhiên Ngài
vẫn quả quyết:
- Đó là kế hoạch duy nhất Ta chọn. Ta không dự trù một kế hoạch nào khác cả. Ta tin tưởng vào họ.
Vâng,
thưa anh chị em, mãi đến 20 thế kỷ sau, Chúa Giêsu vẫn
không thay đổi kế hoạch Ngài đã chọn. Các Tông đồ
đã không làm Ngài thất vọng và cả đám dân được họ
rao giảng Tin Mừng cũng đã không phụ lòng Ngài. Và hiện
giờ Ngài đang tin tưởng vào chúng ta.
Thật
vậy, trước khi từ giã các môn đệ ngài để trở về
trời, Chúa Giêsu đã trao cho các ông trọng trách rao giảng
Tin Mừng của Ngài và đã hứa ban cho các ông được lãnh
nhận ơn Chúa Thánh Thân: “Anh em sẽ nhận được sức
mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên anh em. Bấy giờ
anh em sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, trong khắp
miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất”
(Cv 1,8).
Vì thế,
các môn đệ đã trở về, lòng tràn ngập hân hoan. Đây
chính là lúc phải bắt tay vào việc. Chính nhờ vào niềm
tin và nỗi vui mừng nầy, các môn đệ đã hăng hái ra đi
rao giảng Tin Mừng sau khi được lãnh nhận Thánh Thần.
Các ông không còn sợ hãi của những ngày Chúa chịu
chết, nhưng đầy sức mạnh để dám đương đầu với
tất cả những khổ đau, những thương tích mà chính các
ông không thể trốn tránh được. Quả thật, các môn đệ
của Chúa Giêsu đã không phụ lòng Ngài.
Cha Mark
Link, S.J đã sánh ví ngày lễ Thăng Thiên như một
cuộc chuyền cây gậy từ vận động viên nầy sang vận
động viên khác trong một cuộc chạy tiếp sức.
Cách đây hơn 2000 năm, vào ngày hôm nay, Chúa Giêsu đã
chuyền cây gậy sứ mạng của Ngài cho Phêrô, Giacôbê và
Gioan… đến lượt họ, họ đã chuyền cho những người
tiếp theo sau, rồi những người nầy lại chuyền cây gậy
ấy đến chúng ta. Và giờ đây đến lượt chúng ta lại
phải chuyền gậy cho những người kế tiếp.
Thực
tế mà nói, điều nấy có nghĩa gì? Sứ mạng ra đi rao
giảng Tin Mừng về Chúa Giêsu như các Tông đồ đã làm
mang ý nghĩa gì? Đối với chúng ta, sứ mạng rao giảng
về Chúa Giêsu mang một ý nghĩa căn bản trong cuộc sống
Kitô hữu. Đó chính là làm chứng cho Chúa Giêsu bằng đời
sống Kitô hữu của mình. Đó chính là sống Lời Chúa
Giêsu truyền dạy trong chính cuộc sống riêng của mỗi
người. Để rao giảng Chúa Giêsu cho thế giới, chúng ta
phải bắt đầu bằng cách tự rao giảng Ngài vào chính
cuộc sống chúng ta trước, sau đó lời rao giảng về
Ngài mới tỏa lan khắp thế giới. Nếu có đủ số người
Kitô hữu biết đưa Chúa Giêsu vào cuộc đời mình thì
họ sẽ thay đổi được bộ mặt trái đất nầy thành
tuyệt vời đến mức chúng ta chưa bao giờ dám mơ ước.
Anh chị
em thân mến, Sứ điệp của ngày lễ Thăng Thiên hôm nay
đưa ra cho chúng ta sự thách thức trước trước niềm
tin tưởng mà Chúa Giêsu đã đặt nơi mỗi người chúng
ta: “Anh em là muối đất…
anh em là anh sáng trần gian…” (Mt 5, 13 -16). Là men, là
muối, là ánh sáng cho đời, cuộc sống Kitô hữu phải
tốt, phải ướp mặn chất Tin Mừng, phải phản chiếu
khuôn mặt Chúa Giêsu. Được như thế, chắc chắn chúng
ta sẽ không làm cho Chúa Giêsu phải thất vọng.
Mừng
lễ Chúa lên trời hôm nay, chúng ta không phải chỉ đăm
đăm ngước mắt nhìn về trời để nuối tiếc, để tìm
kiếm, nhưng là ra đi vào thế giới, vào môi trường mình
đang sống, để làm chứng cho Chúa, để làm chứng cho
Chúa, để giới thiệu Chúa Kitô cho anh chị em chung quanh
mình. Chúa Kitô đặt hết niềm tin tưởng nơi chúng ta,
để rồi một khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần
gian, chúng ta cũng sẽ trở về Trời với Chúa của mình.
11. Hãy mang Chúa đến cho nhân trần
(Trích
trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay
Chúa về trời đó là niềm vui và là niềm hy vọng cho
hành trình cuộc đời chúng ta. Một hành trình không vô
định nhưng có điểm tới là quê Cha trên trời. Chính
Chúa Kitô đã soi lối mở đường cho chúng ta. Chính Ngài
đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người.
Từ nay u sầu sẽ gặp niềm vui. Từ nay những đau khổ
đời này không còn làm cho con người thất vọng, nhưng
ánh vinh quang phục sinh của Chúa đã mang lại niềm hy
vọng và lạc quan cho cuộc đời chúng ta.
Người
ta kể rằng: có một bác nông dân đã tình cờ nhặt được
một tượng chịu nạn đã bị sứt mẻ đang nằm chơ vơ
vì không có thập giá. Bác cầm tượng chịu nạn lên và
đi vào trong làng. Bác đến từng nhà. Bác hỏi han từng
người. Từ người già đến người trẻ. Bác nghĩ thầm
rằng: "Không chừng ở đâu đây! Có ai đó đang có
thập giá trơ trụi mà không có Đức Kitô nằm trên. Đức
Kitô của bác không có nơi ngơi nghỉ, còn thập giá của
ai đó không có Đức Kitô. Bác muốn trao Đức Kitô cho ai
đó đang phải vác thập giá một mình, để nhờ Đức
Kitô họ vượt qua những gian nguy của dòng đời. Bởi
vì, một thập giá không có Đức Kitô là tra tấn, là hoả
ngục, là thất vọng. Nhưng, nếu là thập giá có Đức
Kitô sẽ là một hiến tế thánh thiện, một của lễ hy
sinh mang lại ơn ích cho chính mình và cho tha nhân. Thế
nên, bác đã cố gắng tìm đến những ai đang thất vọng
vì gánh nặng hai vai, đang u sầu vì lầm than cơ cực. Bác
trao gởi cho họ Đức Kitô để họ nhận ra họ đang được
thông phần đau khổ với Đức Kitô. Hy vọng rằng cuộc
đời họ sẽ vui hơn vì họ đang làm việc, đang đón
nhận đau khổ vì Đức Kitô, nhờ đó họ cũng được
chung phần vinh phúc với Chúa trên trời.
Vâng,
cuộc đời chúng ta sẽ ngụp lặn trong đau khổ cùng cực
nếu không có Đức Kitô hiện diện. Nếu cuộc đời
không có Đức Kitô thì những hy sinh, những đau khổ,
những gánh nặng trong cuộc đời này sẽ là một mất
mát, một nỗi đau của kiếp người. Đây cũng là tin
mừng mà Đức Kitô đang trao phó cho Giáo hội, cho mỗi
người chúng ta: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên
hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo". Hãy
loan tin vui đến cho những ai đang gặp u sầu, đang thất
vọng, đang trải qua những ngày tháng bất hạnh, khổ
đau. Hãy nói cho họ biết sau đêm dài là ánh bình minh.
Cuộc đời này là một hành trình đi về thiên quốc. Một
con đường có thập giá. Thập giá trong bổn phận. Thập
giá trong hy sinh từ bỏ những tham sân si của dòng đời.
Thập giá trong những dâng hiến cuộc đời để phục vụ
cho lợi ích tha nhân. Đó chính là thập giá mà chúng ta
đón nhận vì Đức Kitô sẽ biến thành thánh giá của
hồng ân cứu độ. Thập giá làm chúng ta không vui. Thập
giá làm chúng ta đau khổ. Nhưng chính nhờ những thập
giá trong cuộc đời sẽ là nhịp cầu đưa tới tới bề
bờ hạnh phúc vô biên.
Người
nông dân đang cố gắng mang Chúa đến cho những mảnh đời
bất hạnh, là sứ vụ mà Chúa đã trao cho Giáo hội và
cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau mang Đức
Kitô đến muôn nẻo đường đời. Hãy mang Đức Kitô đến
cho những ai đang thất vọng u sầu, đang nặng trĩu những
buồn đau. Hãy nói cho họ biết đón nhận mọi biến cố
đang diễn ra trong cuộc đời mình vì Đức Kitô và trong
Đức Kitô.
Hôm
nay, Chúa về trời. Chúa vẫn mang theo những dấu vết của
thương tích trong cuộc khổ nạn. Không có vết thương
nào đắt giá cho bằng sự chết. Như thể, Chúa về trời
với những chứng tích đau thương, với những chống đối
mà Ngài phải gánh chịu trong cuộc sống, với cơn hấp
hối nơi vườn cây dầu, với những đau đớn của roi
đòn, lỗ đinh. Ngài đã mang theo tất cả những giai đoạn
đau thương đẫm máu như dấu tích cho lời xin vâng trọn
vẹn vâng theo thánh ý Chúa. Và hôm nay, Chúa Giêsu muốn
các môn đệ cũng như những ai muốn đi theo Ngài phải đi
con đường này để lên trời. "Anh em hãy làm chứng
cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế
giới". Làm chứng không chỉ bằng lời nói mà bằng
cả cuộc sống theo gương Chúa Giêsu. Một cuộc sống
luôn tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong cuộc sống hằng
ngày. Một cuộc sống phục vụ tha nhân để qua đó muôn
dân sẽ ngợi ca Thiên Chúa. Một cuộc sống làm chứng
không nhất thiết phải đổ máu, nhưng quan yếu là phải
thể hiện tình yêu bằng những nghĩa cử cụ thể trong
lời nói, trong việc làm: luôn bao dung, kính trọng lẫn
nhau, luôn bác ái và sống công bình với nhau. Một cuộc
đời làm chứng không nhất thiết phải có một bản án
để người đời khinh chê, ghét bỏ, nhưng chỉ cần biết
hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng
phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc
sống hằng ngày của chúng ta.
Hôm nay
nhìn Chúa về trời. Các tông đồ cảm thấy lòng trào
dâng niềm vui. Xa xăm nơi cuối chân trời chỉ còn vang
vọng lời Thầy chí Thánh Giêsu: "Anh em hãy làm chứng
nhân cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế
giới". Xin cho mỗi người chúng ta đang khi hướng
lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ vụ trần thế
trong niềm hân hoan, ngõ hầu "Ra đi tay ôm bó lúa đi
gieo - Ngày trở về miệng reo vang câu hát mừng. Amen.
12. Thời kỳ của Giáo Hội – Flor McCarthy.
(Trích
trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy
Niệm 1. HIỆN
DIỆN VÀ VẮNG MẶT
Vào
ngày Lễ Thăng Thiên, Đức Giêsu đã rút lại sự hiện
diện thể lý của Người đối với các môn đệ. Nhưng
sự vắng mặt thể lý ấy không có nghĩa là chấm dứt
sự hiện diện. Sự thăng thiên của Đức Giêsu là sự
giải phóng của Người khỏi mọi giới hạn của thời
gian và không gian. Nó không thể hiện vận động của
Người trên mặt đất, nhưng sự hiện diện thường
xuyên của Người ở mọi nơi trên trái đất.
Sự
hiện diện thể chất không phải là tất cả. Thật vậy,
một đôi khi, sự hiện diện có thể đạt được bằng
con đường hiệp thông mật thiết. Trong đời sống chúng
ta gặp nhiều nỗi thất vọng bởi sự kiện, sự gặp gỡ
và tiếp xúc không phải lúc nào cũng tạo ra sự thân
mật, gần gũi mà chúng ta tìm kiếm. Hai người có gần
gũi nhau về mặt thể chất thế nhưng cuộc sống vẫn xa
cách, cô đơn. Bởi lẽ không có sự gặp gỡ trong trí óc
và tâm hồn. Họ giống như những vỏ sò trên bãi biển.
Mặt
khác, người ta có thể rất gần nhau dù xa cách nhau hàng
ngàn dặm. Đối với những người cùng nhau lớn lên,
trưởng thành phải có những thời kỳ vắng mặt và hiện
diện. Khi vắng mặt, chúng ta nhìn nhau bằng một phương
thế mới mẻ. Chúng ta bớt bực bội nhau vì những cung
cách bên ngoài, và có thể thừa nhận giá trị thật của
nhau tốt hơn.
Nếu
chúng ta có thể hiện diện trọn vẹn với bạn hữu khi
chúng ta ở với họ thì sự vắng mặt của chúng ta cũng
sẽ mang lại kết quả. Khi hồi tưởng sự hiện diện
nồng nàn ấy hơi ấm của nó sẽ tiếp tục nuôi dưỡng
người kia. Vì thế, không chỉ sự hiện diện của chúng
ta mà cả sự vắng mặt của chúng ta cũng đem lại nhiều
ơn ích.
Khi
chúng ta nghĩ đến nhau trong sự yêu thương, một dây liên
kết tinh thần hình thành ở giữa chúng ta và chúng ta
bước vào một sự thân mật mới. Đối với những người
yêu thương nhau, không có chỗ dành cho sự “xa cách”.
Đức
Giêsu lên trời không phải là một cuộc hành trình ra
ngoài không gian, nhưng là một cuộc hành trình về nhà,
chúng ta không nên nghĩ rằng trước đó Người sống trên
mặt đất, còn giờ đây Người lại trở lại nơi thật
sự thuộc về Người. Nếu như thế thì Kitô giáo không
hơn một tôn giáo của sự hoài niệm, hồi tưởng. Đức
Giêsu đã về với Chúa Cha. Trong suốt sứ vụ ở trần
gian, Người chỉ có thể ở một nơi và trong một thời
gian. Nhưng giờ đây, Người đã hiệp nhất với Thiên
Chúa, Người hiện diện bất cứ nơi nào Thiên Chúa hiện
diện, có nghĩa là ở khắp mọi nơi.
Các
Kitô hữu tiên khởi đã hiểu điều ấy rất rõ. Họ
biết rằng Đức Giêsu vẫn ở với họ, cho dù không cùng
một cách thức như trước đây. Họ tin rằng Người vẫn
chia sẻ đời sống với họ, và cái chết có nghĩa là
được hiệp nhất với Người trong vinh quang mãi mãi.
Tuy
nhiên khi nhìn lại, chúng ta cũng thèm muốn được như
những người có may mắn nhìn thấy Chúa Phục Sinh bằng
chính mắt mình. Nhưng Tin Mừng cho biết những người ở
trong tình huống đáng ao ước ấy đã không thật sự
nhận ra Đức Giêsu cho tới lúc Người dẫn giải Kinh
Thánh và bẻ bánh.
Là
những Kitô hữu hôm nay, chúng ta cũng có những phương
tiện như thế để nhận ra Chúa: Kinh Thánh và việc bẻ
bánh. Về vấn đề gặp gỡ Đức Giêsu bằng đức tin,
thế hệ đã qua không có nhiều đặc quyền hơn thế hệ
hiện tại.
Đức
Giêsu đã tín nhiệm các Tông đồ (và giờ đây tín nhiệm
chúng ta) để Tin Mừng bảo đảm được rao giảng và
được sống. Người cần chúng ta làm chứng cho sự hiện
diện của Người trong thế gian.
Suy
Niệm 2. NHÂN
CHỨNG CHO ĐỨC KITÔ
Trước
khi rời xa các tông đồ, Đức Giêsu đã uỷ thác cho họ
việc rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới. Để giúp họ
thi hành sứ vụ ấy. Người hứa sẽ gởi Chúa Thánh Thần
đến cùng họ. Trong ngày Lễ Hiện Xuống, Người đã
hoàn thành lời hứa ấy.
Nhiệm
vụ rao giảng Tin Mừng cho thế giới hiện nay tuỳ thuộc
vào chúng ta. Chúng ta là những nhân chứng của Đức
Kitô. Đó là một đặc ân to lớn nhưng là một nhiệm vụ
luôn làm người ta chán nản. Tuy nhiên, chúng ta cũng có
thể cậy đến sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần. Nhưng
chúng ta phải làm chứng như thế nào?
Có sự
làm chứng bằng lời nói. Chúng ta làm chứng bằng việc
tuyên xưng đức tin của chúng ta. Điều này có thể bao
gồm việc giải thích đức tin và bảo vệ đức tin.
Có sự
làm chứng bằng việc làm. Một cây táo không bao giờ cho
trái táo sẽ là một chứng tá nghèo nàn đối với vườn
cây ăn trái. Dù chỉ trái táo ngon cũng nói lên được
một điều gì đó. “Chớ vao giờ khuyên bảo một điều
gì mà bạn không thể làm gương về điều đó”
(Thoreau).
Rồi có
sự làm chứng bằng đời sống của mình. Cây cối làm
chứng cho sự sống bằng chính sự hiện hữu của nó.
Cao, thẳng, bất độn, chúng là những chứng tá im lặng
nhưng hùng hồn của đời sống. Bông hoa làm chứng về
cái đẹp đơn giản bởi vẻ đẹp phong phú của chúng.
Và những Kitô hữu làm chứng bằng đời sống của họ.
Bài giảng thuyết hùng hồn nhất là bài giảng thuyết
thinh lặng bằng gương sáng. Ngày nay, người ta không còn
muốn nghe những bài giảng về đức tin. Họ muốn nhìn
thấy Tin Mừng trong hành động.
Sự làm
chứng bằng đời sống của một Kitô hữu còn mạnh mẽ
hơn bất cứ lý luận nào. Có những người mà đời sống
của họ toả sáng chứng cứ về quyền năng biến đổi
của đức tin. Trong đời sống của họ, đức tin là một
ngọn lửa sáng, giữa đời sống của những người khác,
đức tin là một ánh sáng lờ mờ hoặc một tia lửa bất
chợt. Dù có mọi giới hạn và khuyết điểm của con
người, nếu một người sống đơn sơ, lấy Đức Kitô
làm mẫu mực thì người ấy là dấu chỉ về Thiên Chúa
và về những thực tại siêu việt.
Chứng
tá của Tin Mừng mà thế giới cho rằng có thể kêu gọi
người ta nhiều nhất là sự quan tâm đến con người, là
việc làm bác ái hướng về người nghèo, người yếu
đuối và người chịu đau khổ. Sự quảng đại được
nhấn mạnh trong thái độ và các hành động đó nổi lên
sự tương phản với tình vị kỷ của con người. Nó đưa
ra những vấn đề chính xác dẫn đưa người ta đến với
Thiên Chúa và đến với Tin Mừng. Một cam kết với hoà
bình, công lý, nhân quyền là một sự làm chứng cho Tin
Mừng.
Có một
cấp độ thứ tư của việc làm chứng, đó là làm chứng
với cái chết của mình. Nhưng điều này không đòi hỏi
mọi người hoặc ban cho mọi người. Đây không phải là
con đường êm ái và dễ dàng, nhưng là một con đường
đòi hỏi một tính kiên trì, sức mạnh và lòng can đảm
đặc biệt.
Thế
giới ngày nay có một sự khao khát mãnh liệt Đức Kitô
của Tin Mừng. Đức Giêsu nói với các Tông đồ: “Anh
em hãy ở lại thành đô, cho đến lúc mặc lấy quyền
năng từ trên cao”. Quyền năng nói ở đây là quyền
năng của Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần có chính quyền
năng này, nếu chúng ta làm chứng cho Đức Giêsu. Và ai
làm chứng sẽ chia sẻ vinh quang của Người.
CÂU
CHUYỆN KHÁC.
Ngày
xưa, có một người cha có mười hai người con. Dù ông
đều yêu thương các con, ông vẫn có một tình thương
dịu dàng với đứa con áp út tên Giuse. Những người con
khác ganh tỵ với Giuse và quyết định giết anh. Tuy
nhiên, vào giây phút cuối cùng, họ đổi ý. Thay vì giết
em, họ bán em cho những thương gia đi ngang qua đó, họ
nói với cha họ rằng người em đã bị thú giết chết.
Giuse
bị xích lại và đưa sang Ai Cập, ở đó ông được bán
như một người nô lệ. Ông có một đời sống cùng cực,
hèn kém. Dsư5 việc còn tệ hơn, khi ông bị vu khống và
bị giam vào ngục tối. Dù xung quanh là những tội phạm
cứng lòng, ông vẫn tiếp tục tín nhiệm vào Thiên Chúa
và sống một đời sống tốt. Ông cũng làm bạn với các
tội phạm. Cuối cùng ông làm rạng danh ông và được
tha.
Lúc
đó, như thấy trước nạn đói khủng khiếp sẽ đến,
ông đã cảnh báo nhà vua phải truyền lệnh cho dân tiết
kiệm ngũ cốc. Nhà vua không chỉ theo lời khuyên của ông
mà còn đặt ông làm quản lý công việc. Giuse đã hoàn
thành công việc một cách xuất sắc.
Nạn
đói đã xảy ra như dự kiến và dân chúng có thể lấy
lúa gạo tích trữ ra dùng. Nhưng trong các nước láng
giềng, tình trạng trở nên tồi tệ. Dân chúng các nước
kéo nhau về Ai Cập để tìm mua ngũ cốc. Và nhà vua nói
với họ: “Hãy đến gặp Giuse”.
Một
ngày kia, anh em của Giuse đã đến Ai Cập để mua ngũ
cốc. Khi họ nhận ra ông họ run sợ. Nhưng thay vì trả
thù, Giuse đã tiếp đãi tử tế, và cho họ đầy đủ
ngũ cốc mà họ cần. Ông nói với họ hãy trở về nhà
và đưa cha họ đi theo họ trở lại Ai Cập cho ông gặp.
Người
cha già rất đỗi vui mừng khi nghe nói rằng đứa con trai
thân yêu của ông vẫn còn sống. Các anh của Giuse đã
phạm phải một hành động ác độc chống lại ông.
Nhưng qua đó, điều tốt lành đã đến với ông. Ông có
thể cứu các anh mình khỏi nạn đói và làm cho cho cả
nhà được đoàn tụ.
Câu
chuyện của Giuse là một trong những câu chuyện cao cả
nhất của Kinh Thánh. Ông Giuse là hình ảnh của Đức
Giêsu, Chúa Con yêu dấu của Chúa Cha, đã bị anh em Người
bán đi, bị giết chết, nhưng giờ đây đã được Chúa
Cha cho sống lại và đặt Người ở bên hữu Chúa Cha
trong vinh quang. Từ vị trí cao trọng ấy, Người cứu
chuộc chúng ta, anh chị em của Người khỏi tội lỗi và
cái chết đời đời. Và Người tìm kiếm để quy tụ
mọi thành phần còn tản lạc của gia đình Thiên Chúa.
Ngày
hôm nay chúng ta cử hành sự thăng thiên của Đức Giêsu.
Người lên trờ ngự bên hữu Chúa Cha. Đây là một ngày
vui vẻ. Nhưng Người đã cho chúng ta một nhiệm vụ phải
hoàn thành. Không phải là phân phát ngũ cốc, nhưng là
rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới.
13. Suy niệm của R. Gutzwiller
Ý
nghĩa Phục sinh
‘Đức
Kitô phải chịu khổ nạn và ngày thứ ba sống lại từ
cõi chết, rồi phải nhân danh Ngài rao giảng cho mọi dân
tộc việc hối cải để được tha thứ tội lỗi –khởi
từ Giêrusalem’. Đấng chịu đóng đinh và Phục sinh sẽ
là Đấng mà lề luật, các tiên tri và thánh vịnh đã
hứa. Biến cố daỳ vò các tông đồ không phải là cái
gì khác hơn là sự thực hiện chương trình vĩ đại về
việc cứu độ của Thiên Chúa. Được phác hoạ trong Cựu
ước và hoàn thành trong Tân ước. Đường dây nối mọi
sách thánh lại là Đấng Messia đến, hành động, hy sinh.
Và kết quả riêng tức ý nghĩa sâu xa nhất là sự thứ
tha tội lỗi cho mọi dân moị nước. Phổ quát tính của
ơn cứu độ, ý nghĩa bao quát của hy sinh thập giá được
diễn tả qua những lời đó. Hy sinh thập giá là hy tế
đem lại ơn cứu chuộc. Và Đấng Thiên Sai khi hoàn tất
hy tế ấy đã trở nên ơn cứu độ cho Israel cũng như
cho cả nhân loại.
Loan
báo Phục sinh
‘Các
anh em là những chứng nhân về điều đó’. Sứ điệp
Kitô giáo không phải là một ý tưởng sáng tạo một
sáng kiến độc đáo chi phối những khám phá mới, cũng
không phải là việc tìm kiếm các chân lý, nhưng chính là
xác quyết sự kiện: Đức Kitô đã chết và đã sống
lại. Kitô giáo trước hết là một biến cố, rồi từ
biến cố ấy thành lịch sử. Và lịch sử đó không
tường thuật lại những hoạt động của loài người
nhưng là những hoạt động của Thiên Chúa, nhất là sự
hy sinh, của một vị Thiên Chúa nhập thể, đem ơn cứu
chuộc đến cho mọi dân tộc. Loan truyền sứ điệp ấy
có nghĩa là chứng thực biến cố ấy, vững lập trường
về sự kiện ấy. Đó là làm chứng bằng lời nói, bằng
đời sống và có khi phải bằng máu nữa. Đã làm chứng
được như vậy, con người phải đón nhận sức mạnh
Thánh Thần Thiên Chúa ‘Ta sắp sai đến trên anh em, điều
Cha Ta đã hứa’. Chính Chúa Thánh Linh là chứng tá đích
thực. Ngài sẽ làm chứng trong các tâm hồn bằng đức
tin bên trong, còn con người làm chứng bên ngoài bằng
việc rao giảng. Bởi thế, sự Phục sinh của Chúa Kitô
là nội dung chính cốt của sứ điệp Kitô giáo qua các
lời giảng dạy của các tông đồ cũng như qua sách công
vụ và các thơ, đứng trước biến cố trọng đại ấy,
tất cả đều phai nhoà đi hết. Việc rao giảng Kitô giáo
không phải là trình bày các qui luật luân lý, giảng giải
các chân lý giáo điều hoặc trình bày cuộc đời Chúa
Giêsu, nhưng sự rao giảng ấy trước hết là một khẳng
định rõ về cái chết và sự Phục sinh của Chúa, vì đó
là những yếu tố trung tâm của lịch sử ơn cứu độ.
TỪ
BIỆT
Đây là
lần cuối cùng Chúa Giêsu ở giữa các tông đồ. Ngài ở
giữa họ để nói lên lời từ biệt. Sự việc xảy ra
gần Bêtania ở cửa thành thánh. Thánh Luca trình bày sự
kiện này hết sức ngắn gọn, nhưng Ngài sẽ trở lại
vấn đề trong chương Tin mừng sách Công Vụ với nhiều
chi tiết hơn là ở đây, khi nói đến việc Chúa về
Trời. Theo Tin mừng ta thâý việc kết thúc sứ vụ loan
báo Tin mừng
1.
Đức Kitô
Chúng
ta được biết Đức Kitô từ biệt các tông đồ đang
khi các Ngài chúc lành cho họ. Ngài không còn giảng dạy
và ra lệnh gì nữa. Mọi cái mờ ám đều biến dạng.
Cho dầu cuộc khổ nạn, việc Phêrô chối Chúa, sự nghi
ngờ Chúa sống lại và sự phập phồng sau lần hiện ra
cuối cùng. Mọi sự đều được sáng tỏ. Tất cả đều
kết thúc tốt đẹp bằng phúc lành của Chúa, Đấng sẽ
ban cho họ sinh lực để sống dù Ngài không còn hiện
diện trước mắt nữa, và để họ hành động và tiếp
tục sự nghiệp, họ sẽ giữ kỷ niệm sống động, việc
Thày chúc lành.
Chúa
lên trời chẳng qua là sự Người trở về cùng Chúa Cha
và được biến hình cả thể xác lẫn tình thần, việc
Chúa lên trời đó đối với các môn đệ cũng là một
dấu chỉ tối cao về việc Ngài trở lại và nhờ đó,
các ông cũng được lên trời. Từ giờ đó, họ biết
rằng đời họ là một cuộc hành trình tiến về ánh
sáng và bất chấp mọi trở ngại của cuộc sống trần
gian cũng như quân thù bách hại, mọi chuyện sẽ hoàn tất
trong ánh sáng của sự biến hình.
2.
Các tông đồ
Họ quì
gối xuống và thờ lạy. Họ không còn u tối, sợ sệt,
phập phồng, hồ nghi gì nữa. Vì thế họ tin kính thờ
lạy. Việc Ngài Phục sinh và lên trời chứng minh rõ ràng
cho họ biết nguồn gốc cũng như bản tính Thiên Chúa của
Ngài và Ngài được cất nhắc lên ngự bên hữu Chúa
Cha. Thờ lạy, thán phục chỉ là cách thức nói lên sự
hân hoan của họ. ‘Rồi họ trở lại Giêrusalem, vui mừng
khôn xiết, và hằng ở trong đền thờ mà chúc tụng
Thiên Chúa’. Tin mừng kết thúc trong niềm hoan lạc, việc
Chúa trở lại ‘uy nghi’ cho các tông đồ có cơ hội
tôn vinh Ngài. Khi nhìn lại, khi nhớ đến lời truyền tin
cho Giacaria và Đức Maria, khi nhớ lại các sứ điệp các
thiên thần gởi cho các mục tử, nhớ đến việc dâng
Chúa trong Đền thờ, rồi ơn kêu gọi riêng họ, việc họ
thông dự vào quyền giảng dạy và làm các phép lạ của
Chúa, từ đây họ hiểu rằng mọi sức đối kháng của
thù địch đều không làm gì được và qua cuộc khổ nạn
và thập giá Chúa, sự đối kháng ấy cũng góp phần vào
việc đặt nền cho hoạt động cứu thế đúng nghĩa, cho
hy tế cứu chuộc để cứu rỗi thế giới, sau cùng họ
thấy rằng Chúa biến hình, từ đây không còn khổ đau
nữa, thì họ chỉ còn biết tạ ơn Thiên Chúa với lòng
thành tín khôn tả. Kế hoạch Ngài đã thực hiện, sự
nghiệp Ngài đã hoàn thành, vinh quang Ngài đã tỏ hiện
cho loài người. chính Thánh Luca đã kết thúc Tin mừng
của ông bằng thánh thi ngợi khen vậy.
14. Chúa lên trời
Cách
đây mấy ngàn năm, khi khoa học về vũ trụ chưa được
phát triển, dân Do Thái cũng như những dân tộc vùng cận
đông thường có một cái nhìn đơn sơ về vũ trụ. Họ
coi trái đất là như một chiếc mâm, chung quanh đất là
biển, dưới lòng đất là âm phủ, nơi ở của những
người đã khuất. Còn bầu trời là như cái lồng bàn úp
lên trên đất và biển. Trên chiếc lồng bàn này có
nhiều thứ kho: kho nước, kho mây, kho gió, kho tuyết, kho
sương mù. Mỗi khi Thiên Chúa mở cửa những kho này là
chúng ta lập tức sẽ có những hiện tượng thiên nhiên
tương ứng.
Vòm
trời cũng là nơi Ngài treo các vì tinh tú để soi sáng
cho mặt đất. Thiên Chúa ngự trên chốn trời cao cùng
với các thiên thần. Vậy khi nói Chúa Giêsu được đưa
lên trời, thì có nghiã là Ngài được đưa vào thế giới
của Thiên Chúa. Ngài được tôn vinh bên Chúa Cha, sau khi
đã hoàn tất công trình cứu độ nhân loại.
Đối
với chúng ta thì hơi khác một chút. Điều cốt lõi của
biến cố Chúa về trời không phải là chuyện Chúa đã
bay lên, thoát khỏi sức hút của trái đất, mà là mầu
nhiệm Ngài được Chúa Cha nâng dậy từ cõi chết và đưa
vào chung hưởng vinh quang bên Chúa Cha. Nơi ở của Thiên
Chúa là thiên đàng. Nhưng thiên đàng ở đây, chúng ta
không được rõ. Toan tính đi tìm thiên đàng bằng một
con tàu vũ trụ điều đó chỉ đưa đến thất vọng và
chứng tỏ một thái độ ấu trĩ, vì thiên đàng nằm
ngoài khả năng cảm nhận của giác quan, như lời thánh
Phaolô: Tai chưa hề nghe, mũi chưa hề ngửi và trái tim
chưa một lần cảm nghiệm được những điều Thiên Chúa
dành cho những người trung thành phụng sự Ngài. Chúng ta
không thấy thiên đàng nhưng thiên đàng còn có thực hơn
cả vũ trụ hữu hình này, bởi vì thế giới của con
người sống nhờ vào thế giới của Thiên Chúa.
Mặc dù
Chúa đã về trời nhưng Ngài vẫn còn ở lại với chúng
ta luôn mãi; bởi vì lên trời không phải là đi vào một
thế giới xa lạ với thế giới loài người và cắt đứt
mọi liên hệ với trần thế… Tuy chúng ta không còn thấy
Ngài một cách hữu hình nhưng Ngài vẫn tiếp tục hiện
diện giữa chúng ta dưới những hình thức khác.
Chúng
ta có thể gặp Ngài qua những kỳ công trong vũ trụ.
Chúng ta có thể gặp Ngài qua những lời giảng dạy.
Chúng ta có thể gặp Ngài qua Bí tích Thánh Thể. Chúng ta
có thể gặp Ngài qua Giáo Hội. Chúng ta có thể gặp Ngài
nơi những người anh em, nhất là những kẻ khổ đau và
bất hạnh. Như thế Ngài được tôn vinh lên trời không
phải là làm một cuộc đi xa, nhưng trái lại là một
cuộc đến gần. Phục sinh và Lên Trời là để làm tròn
sứ vụ giữa lòng thế giới. Chính vì thế mà Ngài đã
truyền cho các môn đệ cũng như cho chúng ta phải tiếp
tay với Ngài: Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân và
đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.
Bởi đó, hãy chu toàn bổn phận của chúng ta, bằng cách
sống đức tin và đem đức tin đến cho những người
chung quanh, để rồi trong ngày sau hết, chúng ta sẽ được
chia sẻ niềm hạnh phúc thiên đàng với Ngài.
15. Chứng nhân
Hôm nay
Giáo Hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Trước khi từ
từ lên cao, Ngài đã ban huấn lệnh: “Các con sẽ là
chứng nhân cho Ta tại Giêrusalem, trong toàn cõi Giuđêa,
Samaria, và cho đến tận cùng cõi đất”.
Các môn
đệ đã chứng kiến cuộc khải hoàn vinh hiển của Chúa,
họ không thể nào im tiếng được. Họ đã mạnh mẽ xác
quyết: “Thiên Chúa đã phục sinh Chúa Kitô mà anh em đã
giết rồi treo lên cây gỗ… và tôn Ngài làm thủ lãnh
và Đấng cứu độ để đem lại cho Israel ơn tha thứ và
hoán cải. Về những sự việc đó chúng tôi đây là
những chứng nhân cùng với Thánh Thần mà Thiên Chúa đã
ban cho những ai vâng phục Người”, “Chúng tôi rao giảng
Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta và đã sống lại
để chúng ta được nên công chính”…
Tất cả
các môn đệ đều bị bách hại đến đổ máu ra vì
chứng cớ đức tin và lời rao giảng của mình. Và sau
họ, từng lớp lớp người cũng đã ngã gục chỉ vì tin
vào Đấng Phục Sinh.
Đối
với chúng ta là những kẻ đã tin, đến lượt chúng ta
cũng phải làm chứng về Ngài, không chỉ bằng lời nói,
mà còn bằng chính đời sống chúng ta nữa. Chúng ta hãy
chứng tỏ cho thế giới biết rằng cuộc sống thường
ngày là những bước tiến lên với Chúa Kitô, và những
thử thách, hy sinh là cần thiết để thanh luyện và làm
sáng tỏ đức tin của chúng ta.
Chúng
ta tiến lên trời với Chúa Kitô bằng kiên nhẫn, hy sinh…
hầu biểu lộ đức ái, bởi vì đức ái là khát vọng
Thiên Chúa và làm điều lành cho tha nhân. Điều đó có
nghĩa là chúng ta chờ đợi thời giờ của Thiên Chúa và
giúp mọi người phương tiện tiến lên với Thiên Chúa.
Đức ái là thái độ phản ánh trung thực nhất niềm
khát vọng nội tâm của chúng ta.
Đời
sống tu trì là một minh chứng cho niềm khát vọng lên
trời trong chờ đợi nhẫn nại và hy sinh. Quả vậy, vì
tin ở lời hứa của Chúa sẽ ban gấp trăm ở đời này
và đời sau được sống muôn đời mà chúng ta đã từ
bỏ tất cả để theo Ngài. Điều Chúa Kitô hứa, Ngài đã
đang và sẽ còn thực hiện. Hạnh phúc mà Ngài ban cho
những ai theo Ngài chính là niềm hoan lạc trong tâm hồn,
hoan lạc của những ai có Chúa làm tất cả. Niềm hoan
lạc đó là hiệu quả tất nhiên của sự bình an, bình
an của những kẻ ẩn náu trong tình thương Chúa. Và những
gì do tình thương Chúa gửi đến đều tốt lành. Ngay cả
cái chết cũng là dịp để chúng ta vui mừng, vì chết là
cánh cửa cuối cùng được mở ra cho chúng ta gặp Chúa
Kitô Phục Sinh - Thăng Thiên mà chúng ta yêu mến kiếm
tìm.
Hỡi
những ai tìm Chúa, tâm lòng hãy vui sống và chúc tụng
Thiên Chúa là Cha Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã tái sinh chúng
ta cho hy vọng sống động, nhờ sự phục sinh - thăng
thiên của Ngài.
16. Chúa lên trời
Khi còn
ở với các môn đệ, đã nhiều lần Chúa Giêsu nói trước
là Ngài sẽ về trời, giờ đây là lúc Ngài thực hiện
điều đó. Việc Chúa Giêsu lên trời mãi mãi là một
huyền nhiệm. Dùng ngôn ngữ loài người để tả một
huyền nhiệm của Trời thì thật khó biết bao. Nhưng điều
quan trọng là biến cố đã xảy ra. Thật khó mà tưởng
tượng rằng sự xuất hiện của Chúa Giêsu cứ thưa dần,
thưa dần cho tới khi tắt hẳn. Nếu thế đức tin con
người sẽ tàn lụi. Nếu như Chúa Giêsu biến thành Đấng
Kitô của cõi trời và không còn liên hệ gì với cõi
trần này, lúc đó chúng ta sẽ rơi vào khủng hoảng.
Đối
với các Kitô hữu, sự thăng thiên của Chúa Giêsu có ba
ý nghĩa:
1)
Đó là sự kết thúc. Một giai đoạn đã qua và một giai
đoạn khác bắt đầu.
Ý nghĩa
trọng đại của việc Chúa thăng thiên là sự cứu chuộc
mà Ngài đã thực hiện cho loài người qua cái chết đền
tội và sống lại của Ngài đã hoàn thành và viên mãn
cho tới đời đời. Tác giả thư Do thái viết: “Ngài là
phản ảnh của vinh quang, là ấn tượng của bản lĩnh
Người, và cầm giữ vạn vật bằng lời quyền năng của
Ngài; sau khi đã thi hành việc thanh tẩy tội lỗi. Ngài
đã lên ngự bên hữu Đấng oai nghi chốn cửu trùng”
(Dt 1,3). “Không phải nhờ máu dê hay máu bê, nhưng là
nhờ chính Máu của Ngài, Ngài đã vào thánh điện -- duy
chỉ một lần -- sau khi đã thành đạt việc cứu chuộc
muôn đời” (Dt 9,12). Chúa Giêsu đã làm xong công tác cứu
chuộc, đã hoàn thành sứ mạng Cha Ngài đã trao phó là
cứu chuộc nhân loại tội lỗi, bằng chính cái chết đền
tội trên thập giá và đã sống lại để ban cho những
ai đặt niềm tin nơi Ngài được sự sống đời đời.
Sự cứu chuộc ấy đã hoàn toàn đầy đủ cho đến muôn
đời. Và như vậy đã chấm dứt thời kỳ mà niềm tin
của các môn đệ đặt vào một vị Thầy bằng xương
bằng thịt, vào sự hiện diện của thân thể Thầy. Từ
nay các môn đệ sẽ liên kết với một Đấng đời đời
vượt khỏi thời gian và không gian.
2)
Và như vậy đây là một khởi đầu
Các môn
đệ ra về trong sự vui mừng chứ không phải với tấm
lòng sầu muộn, vì họ biết rằng từ nay không gì có
thể ngăn cách mình với Thầy của mình. Thánh Phaolô đã
phát biểu: “Ai sẽ tách chúng ta ra khỏi lòng mến của
Đức Kitô?” (Rm 8,35) và ông khẳng định: “Vì tôi thâm
tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên
phủ, dù là hiện tại hay tương lai, hay quyền năng, dù
là chiều cao hay chiều sâu, hay bất cứ tạo vật nào
khác, không gì sẽ có thể tách chúng ta ra khỏi lòng mến
của Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu Chúa chúng ta!” (Rm
8,38-39)
3)
Hơn thế nữa, sự thăng thiên của Chúa quyết chắc với
các môn đệ rằng họ chẳng những có một người Thầy
ở thế gian mà còn có một người Thầy ở trên trời
nữa.
Thánh
Phaolô thách thức: “Ai sẽ cáo tội những kẻ Thiên Chúa
đã chọn -- Thiên Chúa đã giải án tuyên công, ai sẽ là
người lên án? -- Phải chăng là Đức Kitô Giêsu, Đấng
đã chết, hơn nữa, đã sống lại và đang ngự bên hữu
Thiên Chúa, và là Đấng đang chuyển cầu cho ta” (Rm
8,33-34)
Chẳng
hề có ai, vì Chúa đã chết đền tội chúng ta, đã sống
lại làm Cứu Chúa của chúng ta và hiện đang ngồi bên
hữu cầu thay cho chúng ta như một trạng sư. Bên hữu Cha
là chỗ có thế lực, có uy quyền nên sự cầu thay của
Chúa Giêsu rất linh nghiệm.
Còn một
điều quan trọng hơn nữa, sự thăng thiên của Chúa Giêsu
là điều kiện để Ngài sai Chúa Thánh Thần xuống, mà
chúng ta sẽ mừng mầu nhiệm này vào Chúa nhật tới.
Nếu
chúng ta biết Chúa Giêsu của chúng ta đang ở trên trời
thì lòng chúng ta phải hướng về đó. Không có nơi nào
đáng yêu bằng nơi đó. Đó là nơi mà các thánh đã yêu
mến, đã yêu mến một quê hương tốt hơn -quê hương
trần gian- mà các ngài gọi là quê hương trên trời.
Thánh Phaolô khuyên chúng ta là những người cùng chết,
cùng sống lại với Chúa Giêsu cũng sẽ được cùng cất
lên trời để gặp Ngài: “Vậy đã cùng sống lại với
Đức Kitô, anh em hãy tìm kiếm những điều trên cao, nơi
Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Lòng trí hãy
hướng về những điều trên cao, đừng (hướng) về
những điều dưới đất. (Cl 3,1-2)
Chúng
ta phải cẩn thận về điều thánh Phaolô muốn nói ở
đây, chắc chắn Ngài không hề biện hộ cho việc mơ
tưởng tới một thế giới khác khiến những người tin
Chúa tự rút mình ra khỏi các công tác, các hoạt động
thuộc về đời này, chẳng làm gì ngoài việc chiêm
ngưỡng cõi đời đời mà thôi. Vì ngay sau đó, thánh
Phaolô tiếp tục quy định một loạt các nguyên tắc đạo
đức vạch rõ rằng người Kitô hữu cứ tiếp tục công
việc ở đời này và duy trì mọi mối liên hệ bình
thường với thế gian này. Nhưng phải có chỗ khác biệt
là từ nay trở đi, Kitô hữu phải nhìn mọi sự trong ánh
sáng, trong bối cảnh là cõi đời đời. Người ấy sẽ
không sống dường như đời này là tất cả những gì
mình phải quan tâm đến, nhưng phải đặt thế gian này
trong bối cảnh của cõi đời đời. Rõ ràng điều ấy
sẽ đem đến cho người Kitô hữu một loạt các giá trị
mới. Kitô hữu sẽ không còn bận tâm đến những điều
mà người thế gian xem là quan trọng nữa. Các tham vọng
đang ngự trị thế gian sẽ bất lực và không thể làm
cho người ấy vướng bận nữa. Người ấy sẽ tiếp tục
sử dụng những điều thuộc về thế gian này nhưng trong
một cách thức mới. Người ấy sẽ đặt việc ‘cho đi’
lên trên việc ‘thu góp’, phục vụ trên cai trị, tha
thứ ở trên báo thù. Tiêu chuẩn về giá trị của người
ấy sẽ là tiên chuẩn của cõi trời chứ không phải cõi
đời.
Khi
người thanh niên giàu có đến xin Chúa Giêsu chỉ cho anh
phương cách để được sống vĩnh cửu. Chúa bảo anh về
đem tài sản phân phát cho kẻ nghèo để được của cải
trên trời. Điều gì đã làm vì tình yêu sẽ bền vững
muôn đời.
Thật
an ủi khi biết rằng Đấng chờ đợi ta ở trên trời
cũng là Đấng đã, đang bao bọc ta ở dưới đất.
17. Chúa lên trời - Lm. Phạm Thanh Liêm
Đức
Giêsu lên trời, nhưng Ngài vẫn ở với con người cho đến
tận thế. Xin cho ki-tô hữu được nên giống Đức Giêsu
mỗi ngày một hơn.
Đức
Giêsu lên trời
Sách
Công Vụ Tông Đồ cho thấy Đức Giêsu đã hiện ra với
các tông đồ suốt bốn mươi ngày sau khi Ngài sống lại.
Trong thời gian này Người đã ăn uống với các ngài, dạy
dỗ các ngài nhiều điều; rồi đến thời đã định,
Người đã lên trời trước mắt các ông.
Phải
hiểu điều này như thế nào, khi người thời nay biết
trái đất tròn; như vậy, trời phía trên đầu của người
ở Việt Nam, lại là hướng dưới chân của người ở
Mỹ, và ngược lại. Một phi hành gia bay lên vũ trụ,
trời là khoảng không đối với họ! Tin Mừng Đức Giêsu
theo thánh Matthêu cho thấy Đức Giêsu không lên trời,
nhưng ở lại với con người cho đến ngày tận thế:
“Này đây Thầy ở cùng anh em cho đến ngày tận thế”
(Mt.28, 20). Làm sao trả lời cho con người ngày nay về
việc hai trình thuật dường như trái ngược nhau?
“Lên
trời ngự bên hữu Thiên Chúa”, là một cách nói dùng
để chỉ Đức Giêsu được siêu tôn ngang bằng Thiên
Chúa. Thiên Chúa là Đấng vô hình, làm gì có tay phải
tay trái như con người. Đây là cách nói nhân hình, nghĩa
là, nói về Thiên Chúa theo kiểu con người. Để hiểu
đúng, không được hiểu theo nghĩa đen. Đức Giêsu lên
trời ngự bên hữu Thiên Chúa, nghĩa là, Đức Giêsu là
Thiên Chúa.
Các
ngươi là chứng nhân về những điều này
Không
phải tất cả mọi người đều được thấy Đức Giêsu
Phục Sinh. Chỉ có một số người được chọn, mới
được diễm phúc này, và họ trở thành chứng nhân của
Chúa Phục Sinh. Các tông đồ là những người được
thấy Chúa, và các Ngài đã là những chứng nhân anh dũng
của Đấng Phục Sinh qua việc dùng chính mạng sống mình
để làm chứng. “Ngu gì” để chết cho điều không
thật hoặc không quan trọng! Sẵn sàng chết để làm
chứng Đức Giêsu đã phục sinh, làm cho điều các tông
đồ rao giảng “đáng tin”.
Các
tông đồ đã chết. Các ki-tô hữu là những môn đệ của
Đức Giêsu, đến lượt mình, các ki-tô hữu được mời
gọi trở thành chứng nhân của Chúa Phục Sinh cho con
người thời đại hôm nay.
Các
tông đồ đã chết để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.
Ki-tô hữu hôm nay được mời gọi để sống yêu thương,
như dấu chứng Thiên Chúa đang hiện diện và hành động
nơi ki-tô hữu trong thế giới này. Yêu, đòi phải hy
sinh, và cũng là một cách “chết” cho người yêu.
Nên
giống Đức Giêsu
Đức
Giêsu là thượng tế, là của lễ và bàn thờ. Lời Thiên
Chúa nhập thể vì yêu con người, Ngài đã chết để đền
tội con người, để con người không phải chết vì tội
mình nữa nhưng được sống, vì có người đã chết thế
cho mình.
Đức
Giêsu dùng chính máu Ngài để thanh tẩy tội lỗi con
người. Ngài thương cảm con người với những yếu đuối
và giới hạn của họ. Ngài đã trải qua tất cả những
gian nan thử thách, để con người có can đảm tới với
Ngài.
Là
người, anh chị em với nhau. Mỗi người phải trở nên
một “Giêsu khác” để thông cảm và nâng đỡ anh chị
em mình. Mỗi người được mời trở nên giống Đức
Giêsu, bằng “yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh
em”.
Câu
hỏi gợi ý chia sẻ:
- Theo bạn, Đức Giêsu Phục Sinh bây giờ đang ở đâu? Xin giải thích.
- Trong đời tu hoặc đời sống ki-tô hữu, người ta thường nói tới “cái chết không đổ máu”, bạn hiểu điều này như thế nào? Cho thí dụ.
- Người nên giống Đức Giêsu nhất, là người có những đức tính nào?
18. Lên trời
Qua Phúc
Âm, chúng ta biết: sau khi sống lại, Chúa Giêsu còn ở
trần gian bốn mươi ngày. Trong suốt quãng thời gian này,
Ngài đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ. Các ông
có diễm phúc được nhìn thấy Ngài, được ăn uống với
Ngài. Tất cả những sự việc ấy đã tạo nên cho các
ông một niềm xác tín: Ngài đã phục sinh.
Cũng
trong thời gian ấy, Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho cuộc ra
đi của mình. Ngài nói với các ông:
- Ta sẽ trở về với Cha Ta, cũng là Cha của các con, về với Thiên Chúa của Ta, cũng là Thiên Chúa của các con.
Thế
nhưng, các ông đã không hiểu được lời nói mầu nhiệm
này. Sau cùng, Ngài đã gặp các ông trong phòng tiệc ly,
tâm sự với các ông và khi bữa ăn kết thúc, theo thông
lệ, Ngài dẫn các ông lên núi Cây Dầu.
Các ông
đi qua đường phố Giêrusalem, xuống thung lũng Cêdron,
theo con đường Ngài đã bước đi trong cuộc tử nạn.
Chắc hẳn khi đi lại con đường ấy, Chúa Giêsu và các
môn đệ đã nói chuyện, đã hàn huyên với nhau rất
nhiều.
Khi tới
núi Cây Dầu, Chúa Giêsu và các môn đệ đã đưa mắt
nhìn chung quanh và đã thấy được toàn cảnh thành phố
Giêrulem với miền đất hứa. Chúng ta hãy cùng các tông
đồ đứng trên đỉnh núi Cây Dầu và đưa mắt nhìn:
Gần đấy là Bêtania, nơi ba chị em Martha, Maria và Lagiarô
sinh sống. Họ là những người được Chúa yêu và cũng
là những người yêu Chúa.
Về
phía bên trái là Bêlem, nơi Ngài mở mắt chào đời. Rồi
sau đó là những vệt trắng. Đó là những con đường từ
Giêrusalem đi tới những thôn làng, những thị trấn của
xứ Giuđêa. Hẳn rằng các tông đồ đã nhớ tới biết
bao nhiêu kỷ niệm trên những nẻo đường quen thuộc
này: nào là những việc kỳ diệu Chúa đã làm, nào là
những lời lẽ khôn ngoan Chúa đã dạy. Xa hơn một chút
là dòng sông Giócđan, nơi các tông đồ sống lại những
kỷ niệm đầu tiên, khi gặp Chúa và được Ngài kêu
gọi.
Còn về
phía bên phải: xa xa là biển cả. Những con tàu nhổ nheo
đi về Rôma, cũng như đi về những miền khác nhau của
dân ngoại. Có lẽ chính trong bối cảnh này mà Chúa Giêsu
đã truyền cho các tông đồ:
- Các con hãy đi giảng dạy muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Trong
thâm tâm, Ngài muốn bảo các ông rằng:
- Hy lễ của Ta đã hoàn tất. Công việc của Ta đã kết thúc. Bây giờ đến lượt các con. Vậy các con hãy đi loan truyền Tin mừng cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Có lẽ
các tông đồ đã trả lời:
- Vì tình yêu và vinh quang của Chúa, chúng con sẽ làm tất cả.
Sau đó,
Chúa Giêsu đã lên trời. Còn các tông đồ thì ngạc
nhiên nhìn theo cho đến khi thiên thần hiện ra và bảo:
- Các ngươi đứng nhìn làm chi. Đức Kitô đã về trời thế nào thì Ngài cũng sẽ trở lại như vậy.
Hẳn
chúng ta đã biết: Ngài sẽ trở lại vào ngày tận thế.
Rồi sau đó lại sẽ về trời. Nhưng về trời lần này,
thì cùng với Ngài còn có tất cả những người đã tin
theo và yêu mến Ngài.
Chính
vì thế, các tông đồ không hề buồn phiền, vì các ông
biết rằng đây chỉ là một cuộc tạm biết, chứ không
phải là một cuộc ly biệt, vĩnh viễn chia cắt đôi ngả.
Ngài sẽ trở lại và các ông sẽ lại được xem thấy
Ngài. Trong lúc chờ đợi, các ông ra sức chu toàn sứ
mạng Ngài đã trao phó, đó là rao giảng Tin mừng, làm
chứng về Ngài.
Với
chúng ta cũng vậy. Mổi khi tham dự thánh lễ, chúng ta có
diễm phúc được ở gần Chúa, được lắng nghe lời
Ngài. Thế nhưng, trước khi thánh lễ kết thúc, qua môi
miệng của vị linh mục, Chúa cũng nói với chúng ta:
- Lễ xong, chúc anh chị em ra về bình an.
Điều
đó có nghĩa là: hãy ra về để chu toàn sứ mạng Chúa
trao phó. Hãy ra về để rao giảng Tin mừng. Hãy ra về để
làm chứng cho Chúa giữa lòng cuộc đời.
19. Chứng nhân
Dù
chỉ là một nữ tu sáng lập đơn côi ban đầu, mẹ
Têrêsa đã làm nên phép lạ cho dòng Thừa Sai Bác Ai của
mẹ lên đến 4000 nữ tu, 450 sư huynh và hàng ngàn người
ngoại giáo ngày đêm xuôi ngược tiếp tục công việc
nhân ái của mẹ, với 600 cơ sở và 126 quốc gia trên thế
giới. Từ ngày thành lập từ năm 1950 đến nay mỗi năm
nhà dòng của mẹ đã giúp nuôi 50.000 gia đình nghèo, dạy
dỗ cho 20.000 trẻ em và săn sóc cho 90.000 người mắc bệnh
phong cùi trong các bệnh viện riêng ở 10 quốc gia. Các
trẻ em mồ côi mà mẹ đã nuôi dạy từ hơn nửa thế kỷ
nay nhiều không kể xiết.
Ngày
mẹ qua đời, tổng thống pháp Jacques Chirac đã gởi một
bức điện với lời lẽ đau buồn như sau: “Buổi tối
hôm nay đã có ít Tình yêu hơn, ít lòng trắc ẩn hơn và
ít ánh sáng hơn trên thế giới này”.
Mẹ
Têrêsa quả là một chứng nhân anh dũng. Mẹ không chỉ
tin đạo mà còn sống đạo để làm chứng nhân của tình
yêu Thiên Chúa cho thời đại hôm nay.
Bài tin
Mừng hôm nay kết thúc Tin Mừng thánh Luca, kể lại việc
Chúa Giêsu dạy dỗ các tông đồ lần cuối cùng, sai các
ông đi rao giảng và làm chứng cho Ngài rồi Ngài lên
Trời.
Sách
Công vụ tông đồ trình bày cho chúng ta biết biến cố
lên trời là một sự hoàn tất gắn với một khởi đầu.
Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng cứu độ trần gian và khởi
đầu cho sứ mạng làm chứng nhân của Giáo Hội.
Điều
mà bài tin Mừng hôm nay muốn nhấn mạnh, không phải là
việc Chúa Giêsu được đem lên trời cách kỳ diệu mà
là việc các tông đồ được sai đi để loan báo một
Tin Mừng mới lạ, một Tin Mừng cho muôn dân. Đó là Tin
Mừng về việc cứu độ.
Các
Tông đồ đón nhận lời mời của Chúa Giêsu trong niềm
tin tưởng và hân hoan. Tin vào Chúa Giêsu đã phục sinh và
lên trời. Tin Ngài sẽ ban Thánh Thần để giúp các ông
thi hành sứ mạng mới. Hân hoan vì mỗi người đều được
Chúa Giêsu tin tưởng và sai đi.
Với
sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ, những
chứng nhân tích cực sẽ không ngừng làm chứng cho các
giá trị Tin Mừng, cho đến tận thôn cùng xóm vắng.
Đức
Giêsu đã lên trời, nhưng bằng ngày vẫn có muôn vàn
chứng nhân tiếp bước Ngài, đón nhận, sáng tạo và đi
xây dựng cho thế giới ngày một tốt đẹp hơn.
Họ
cũng là những người gây phiền nhiễu như Chúa Giêsu. Họ
không chấp nhận một trật tự bất công, một thế giới
thiếu vắng tình thương trong đó một số người giàu có
dư dật trong khi hàng vạn người phải lang thang đói
rách. Họ là những kẻ gây phiền nhiễu như Chúa Giêsu,
vì họ làm hết cách để người ta tin rằng, nhân loại
có thể ngày một tiến gần hơn đến công bình, tha thứ
và tình thương.
Để
làm những việc ấy chính các Tông đồ và những chứng
nhân tiếp nối các Tông đồ trong Giáo hội chấp nhận
sự hiểu lầm, chống đối, đau khổ, tù đày và cả cái
chết. Bởi họ luôn có sức mạnh của Chúa Thánh Thần
và xác tín vào niềm tin Chúa Giêsu phục sinh.
Chính
anh em là chứng nhân.
Hôm nay
cũng như bao lần khác, chúng ta cùng nhau mừng lễ Chúa
Giêsu lên trời và cũng đã nghe nhiều lần lời mời gọi
của Chúa Giêsu “phải rao giảng cho muôn dân… chính anh
em là chứng nhân”. nhưng chúng ta có đáp lại lời mời
gọi đó với niềm tin tưởng và hân hoan không? hay chúng
ta nghĩ đó là công việc của các linh mục, của tu sĩ
nam nữ.
Hơn bao
giờ hết cuộc sống của hôm nay đã có không ít những
khó khăn đang đặt ra cho mỗi gia đình và cho mỗi người
chúng ta. Những khó khăn đó đã làm cho chúng ta quên đi
đời sống chứng nhân của mình. Tuy nhiên cũng có những
người trong chúng ta sống dửng dưng, không quan tâm đến
ai khác ngoài cái tôi của mình ngoài tiền bạc và tham
vọng cá nhân.
Lễ
Chúa Giêsu lên trời hôm nay một lần nữa Chúa mời gọi
mỗi người chúng ta hãy là chứng nhân cho Ngài. Ngài
không đòi hỏi chúng ta phải lập nhà dòng hay xây dựng
những cơ sở để làm việc từ thiện như Mẹ Têrêsa,
điều Ngài chờ đợi nơi mỗi người chúng ta là hãy bỏ
đi tính ích kỷ xâm chiếm cuộc sống của chúng ta để
mở tâm hồn mở con tim mở miệng ra để sống cho Ngài
và cho tha nhân.
Mở tâm
hồn để lắng nghe, suy niệm và chiêm ngắm Chúa trong
Thánh Kinh đó là cách thức để Lời Chúa trở thành ánh
sáng và sức mạnh cho những lựa chọn và quyết định
trong cuộc sống hằng ngày.
Mở con
tim ra với tha nhân giúp nhau phát huy những tương đồng,
chấp nhận dị đồng, vượt qua những bất đồng. Đặc
biệt là biết người đau khổ… để mỗi người có thể
nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu và là người xây
dựng hòa bình.
Cuối
cùng chúng ta hãy biết nói về Chúa Giêsu cho người khác
khi có điều kiện.
Con
người thời nay thường nghe các chứng nhân hơn là các
bậc thầy, cũng như họ đã xác tín vào điều đã trông
thấy tận mắt hơn là chỉ thích chúng ta làm chứng bằng
lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục
vụ và yêu thương.
20. Nước trời
Nhìn
vào thực tế, chúng ta phải nhìn nhận rằng: chúng ta đã
quá bén rễ sâu vào cuộc sống trần gian, đã quá quyến
luyến những thực tại chóng qua. Chúng ta đã chọn trái
đất này làm quê hương vĩnh cửu và sẵn sàng bán rẻ
linh hồn mình lấy một nắm tro bụi. Dân Do thái ngày xưa
đã thờ lạy con bò vàng thế nào thì hôm nay con người
cũng đang đi vào con đường ấy. Họ tôn thờ những thần
tượng nhảm nhí thay cho Thiên Chúa, như một lời phát
biểu đầy châm biếm: hiện giờ tôn giáo lớn nhất trên
hoàn cầu là tôn giáo … bóng đá.
Bởi đó
ngày hôm nay, sau khi hoàn tất sứ mạng ở trần gian, Chúa
Giêsu đã về trời để nói với chúng ta rằng: cuộc
sống trần gian chỉ là như một chiếc thang dẫn chúng ta
tới quê trời. Hay nói cách khác, trần gian là quán trọ,
nước trời mới chính là quê hương đích thực của
chúng ta. Khốn cho tôi nếu tôi quên đi chân lý ấy. Khốn
cho tôi nếu tôi ra sức biến đổi trái đất thành một
thiên đàng vĩnh cửu. Khốn cho tôi nếu tôi không biết
dùng cuộc sống này để chuẩn bị những hành trang cần
thiết cho tương lai mai hậu… Nhưng dựa vào đâu chúng
ta xác quyết rằng: còn một cuộc sống khác, một thế
giới khác?
Chúng
ta không chụp được hình, cũng không bắt được làn
sóng của thế giới ấy, không một ai đã nhìn thấy hay
có kinh nghiệm, nhưng sở dĩ chúng ta tin là bởi vì Thiên
Chúa đã mạc khải, đã tỏ lộ cho chúng ta. Thực vậy,
chúng ta không thể biết nếu Đức Kitô đã không nói đến
nước trời bằng những từ ngữ khác nhau. Chúng ta không
thể biết nếu thánh Phaolô đã không viết: “Mắt chưa
hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm
nghiệm được những gì Thiên Chúa dành cho kẻ yêu mến
Ngài”. Chúng ta không thể biết nếu thánh Gioan đã không
mô tả: “Ở đó sẽ không còn thời gian và không gian,
buổi sáng và buổi chiều, tội lỗi và sự chết. Ở đó,
Thiên Chúa sẽ lau khô những giọt nước mắt của chúng
ta”. Chúng ta không thể biết nếu hôm nay Đức Kitô đã
không về trời để củng cố niềm tin của mọi tín hữu
suốt dòng thời gian, giúp họ hăng say rao giảng Tin Mừng,
chấp nhận mọi khổ đau, chịu đựng mọi thử thách.
Thế giới ấy sẽ to lớn gấp ngàn vạn lần thế giới
chúng ta đang sống. Vậy thế giới ấy ở đâu? Có phải
là lơ lửng giữa các vì sao, trên không trung bao la? Có
phải là ở dưới lòng đại dương thăm thẳm? Không, tất
cả đều không đúng. Vậy thế giới ấy ở đâu?
Thưa: ở
bất kỳ nơi nào chúng ta được nhìn ngắm Thiên Chúa, ở
bất kỳ nơi nào có Ngài thì đó là nước trời, thì đó
là hạnh phúc vĩnh cửu. Trái lại, bất kỳ nơi nào không
có Thiên Chúa, bất kỳ nơi nào chúng ta không được nhìn
ngắm Ngài, thì đó là hỏa ngục, thì đó là chốn đọa
đầy. Xưa kia thánh Tôma tông đồ nói: “Nào chúng ta
cùng đi để được chết với Ngài”. Còn hôm nay, chúng
ta có thể đổi lại câu nói ấy: “Nào chúng ta cùng đi
để được sống với Ngài”. Phải, sống với Ngài
trong một cuộc sống vĩnh cửu. Niềm tin ấy đã thiêu
đốt biết bao nhiêu con tim suốt 20 thế kỷ. Chúng ta cần
đến khoa học và kỹ thuật, nhưng chúng ta phải luôn
nhớ: khoa học và kỹ thuật không thể giúp chúng ta tránh
khỏi cái chết. Và sau cái chết sẽ còn lại một cuộc
sống khác, trải dài đến muôn ngàn đời. Nếu có ai
hỏi: điều ấy có chắc chắn như ngày mai sẽ là thứ
hai không? Tôi sẽ trả lời: còn hơn thế nữa. nếu có
ai hỏi: điều ấy có chắc chắn như mặt trời mọc vào
ban sáng và lặn vào ban chiều hay không? Tôi sẽ trả lời:
còn hơn thế nữa. Nếu có ai hỏi: điều ấy có chắc
chắn như mùa xuân sẽ trở lại khi mùa đông qua đi hay
không? Tôi sẽ trả lời: còn hơn thế nữa. Phải, vì có
thể có một ngày Chúa nhật mà sau đó không còn ngày thứ
hai; có thể có mặt trời mọc vào ban sáng mà không còn
ban chiều để lặn; có thể có một mùa đông mà sau đó
mùa xuân sẽ không bao giờ trở lại. Nhưng sẽ không bao
giờ xảy ra rằng lời Chúa sẽ chẳng được thực hiện:
“Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta sẽ không
phải chết, nhưng sẽ được sống đời đời”.
21. Chứng nhân Nước Trời – Lm. Bùi Quang Tuấn
Có
rất nhiều người lầm tưởng thiên đàng là một khoảng
không gian nào đó trên cao kia. Sự lầm tưởng này đã
làm phát sinh nhiều hậu quả không hay: người có đạo
thì bị lung lay bối rối khi có một vài khoa học gia nói
rằng: Chẳng thấy Chúa đâu trên kia cả; người không có
đạo thì nghĩ: Có lẽ nước trời là một thế giới nằm
đâu đó trong không gian, với những sinh hoạt na ná giống
như trần gian này. Thế nên đã có câu chuyện khôi hài
do một cha thừa sai kể lại: Sau một tuần giảng đại
phúc thật sốt sắng tại một vùng đất nọ, các cha
khuyên nhủ được một ông cụ ngoại đạo gia nhập đoàn
chiên Chúa. Thấy cụ bà chưa có dấu hiệu nào khả quan,
nên các cha tích cực khuyên bảo: “Ông đã theo đạo
rồi, bà cũng nên theo đi thôi, để sau khi chết còn lên
thiên đàng gặp lại nhau nữa chứ.” Nghe thế cụ bà
hốt hoảng trả lời, “Không được đâu, suốt đời
ổng đã hành hạ tui đủ thứ. Mai mốt trên thiên đàng
còn phải gặp lại mặt ổng nữa thì tui chết mất.”
Thiên
đàng sẽ chỉ là một con số “không”, chẳng có chút
gì hấp dẫn nếu như nơi đó không có hạnh phúc. Nhưng
hạnh phúc chính là hoa trái của yêu thương, mà yêu
thương thì phát xuất từ con tim, nghĩa là từ bên trong.
Bên trong chứ không phải bên ngoài hay bên trên kia.
Nước
trời không ở bên ngoài hay bên trên, cũng không phải là
một nơi nào đó trong không gian. Nước trời phải được
hiểu như là một thực tại phía trong: trong lòng tôi,
trong nơi tôi đang cư ngụ hay làm việc, và trong tầm với
của gia đình.
Cho nên
nói Chúa Giêsu lên trời cũng chính là nói Chúa Giêsu đi
vào trong đời ta, nhà ta, lòng ta, gia đình ta. Có như thế
thì lời “Ta sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến
tận thế” mới đong đầy ý nghĩa của nó. Chứ nếu
như Ngài lên trời cao xanh hay Ngài ở nơi thế giới ngoài
kia thì làm sao hiểu là Ngài đang ở cùng chúng ta được.
Và vì Chúa Giêsu đã đi sâu vào đời ta, nhà ta, nên Ngài
đã truyền cho chúng ta phải làm chứng cho sự hiện diện
của Ngài: “Các ngươi phải là nhân chứng của Ta.”
Chứng
tá cho Đức Giêsu là làm sao vẽ được dung mạo của
Ngài ngay trên cuộc sống của mình, làm sao cho người
khác cảm nhận được sự hiện diện của Ngài ngay trong
môi trường mình đang sinh hoạt, diễn tả được hình
ảnh của Nước Trời đang ở giữa và ở trong chúng ta.
Có
nhà hoạ sĩ kia cứ mãi mơ ước trong đời mình sẽ vẽ
được một bức tranh đẹp nhất thế giới. Nhưng anh ta
không biết phải vẽ thứ gì để bức tranh sẽ có được
hình ảnh, màu sắc, và nội dung sâu đậm đáng trở
thành bức tranh tuyệt vời nhất trần gian.
Chàng
đã tìm hỏi với một linh mục về điều gì đẹp và ý
nghĩa nhất. Vị linh mục trả lời ngay: “Niềm tin. Niềm
tin là số một, niềm tin sẽ nâng cao giá trị con người.
Niềm tin sẽ chữa lành và biến đổi mọi sự nên tuyệt
vời.”
Chàng
hoạ sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự với một cô gái
đang bước lên xe hoa về nhà chồng. Cô gái trả lời:
“Trên thế gian này không có gì đẹp bằng tình yêu.
Tình yêu là hơi thở, là sức sống, là hạnh phúc, là
tất cả. Tình yêu biến cay đắng thành ngọt ngào, đưa
tiếng cười vào nơi than khóc, đổi nghèo hèn tầm thường
thành phú quí cao sang. Tình yêu thật tuyệt vời.”
Cuối
cùng người hoạ sĩ gặp một anh thương binh vừa trở về
từ tiền phương. Anh lính đã trả lời: “Hoà bình là
điều đẹp nhất trần gian. Ở đâu có chiến tranh, ở
đó có đổ nát, bất hạnh, khổ đau. Ở đâu có hoà
bình, ở đó có cái đẹp.”
Ba
câu nói của ba con người-- vị linh mục, cô gái sắp lấy
chồng và anh thương binh trẻ-- đã làm cho người hoạ sĩ
phân vân: không biết phải làm thế nào để trên bức
tranh của mình có thể diễn tả cùng một lúc niềm tin,
tình yêu, và hoà bình.
Đang
suy nghĩ anh về đến nhà lúc nào không hay. Mấy đứa con
anh ùa ra đón bố. Anh nhận thấy niềm tin trong ánh mắt
của các con. Anh cũng cảm được tình yêu trong chiếc hôn
chân thành của người vợ. Niềm tin của con cái và tình
yêu của người vợ làm cho tâm hồn anh ta ấm áp và an
bình lạ thường. Thế rồi một ý tưởng chợt loé lên
trong đầu. Anh vội ngồi xuống khởi công vẽ tranh, và
sau khi hoàn thành tác phẩm đẹp nhất thế gian, anh đã
đặt tên cho nó: “Mái Ấm Gia Đình.”
Mái ấm
gia đình chính là hình ảnh xinh đẹp và sống động nhất
mà người ta có thể vẽ được về Nước Trời hay Thiên
đàng ngay trên thế gian này. Mái ấm gia đình cũng sẽ là
lời chứng tá hùng hồn nhất cho sự hiện diện của Đức
Giêsu giữa dương gian.
Bạn
chưa cần phải đi đâu xa để làm chứng tá về niềm
tin; bạn cũng chưa thể đi đến mút cùng trái đất để
giảng về tình yêu và an bình của trời cao. Nhưng bạn
có thể làm chứng tá cho Đức Giêsu ngay trong gia đình
của mình.
Trước
mỗi hành động, lời nói, giao tế, cư xử, hãy tự hỏi:
tôi có làm mất niềm tin nơi người bạn đời hay nơi
con cái của tôi không? Tôi đang xây dựng tình thương và
an bình hay đang sống phản chứng trước mặt con cái và
bạn đời? Tôi có đang cố gắng vẽ lên chân dung của
Thiên Chúa qua việc hy sinh để kiến tạo một mái ấm
gia đình không?
Những
dòng chữ sau đây rất đáng cho bạn và tôi tâm niệm để
ý thức hơn khi vẽ lên cho đời những “mái ấm”:
“Mái
ấm là môi trường và là thánh đường đầu tiên cho
tuổi thơ học thế nào là điều ngay, thế nào là điều
thiện, thế nào là lòng tử tế.
- Đó là nơi tuổi thơ tìm về để được an ủi vỗ về mỗi khi đau khổ, bệnh tật.
- Đó là nơi chia sẻ niềm vui và xoa dịu buồn phiền.
- Đó là nơi cha mẹ được kính trọng và yêu thương...
- Đó là nơi mà những món ăn đơn sơ cũng trở thành cao lương mỹ vị, bởi vì là giá của mồ hôi nước mắt.
- Đó là nơi mà tiền bạc không quí bằng tình yêu.
- Và đó là nơi mà ngay cả nước sôi cũng reo lên niềm hạnh phúc.
Mái ấm
gia đình. Đó là nơi được Thiên Chúa chúc phúc.”
Ước
gì Lễ Chúa Giêsu Lên Trời nhắc chúng ta về một Nước
Trời tại thế--mái ấm gia đình--để sau Lễ Lên Trời
này, bạn và tôi cũng sẽ theo bước chân của các môn
đệ, lên đường làm chứng tá cho Đức Kitô, chứng tá
ngay trong gia đình, chứng tá bằng việc xây dựng một
mái ấm. Dù rằng cuộc đời của chứng nhân nào cũng
không tránh khỏi đổ mồ hôi hay đổ máu, không tránh
khỏi những hiểm nguy như chiên đi giữa sói rừng, không
tránh khỏi khốn khổ như một người tôi tớ, nhưng đó
là giá cần trả để có được một bức tranh tuyệt đẹp
của niềm tin, yêu thương, và an bình hạnh phúc.
22. Chú giải của Noel Quesson
Cũng
như đối với trình thuật về cuộc Thương khó và Phục
sinh, ta nên suy niệm những trình thuật khác nhau về biến
cố Thăng Thiên được ghi lại cho ta: suy niệm tận nguồn
gốc đặc biệt của chúng, để khỏi lẫn lộn Người
với một thứ hình tượng -người máy.
Năm
nay, chúng ta có may mắn được nghe hai trình thuật diễn
tả cùng một biến cố do cùng một tác giả thuật lại
đó là Luca. Thật rõ ràng, nếu Luca không nỗ lực dung
hòa toàn diện hai đoạn văn mô tả của ông, là vì theo
ông, chính những khác biệt đó có một ý nghĩa... vượt
qua tính lịch sử được hiểu theo nghĩa hẹp.
Trong
Tin Mừng, Luca giới thiệu biến cố Thăng Thiên ngay chiều
hôm Phục sinh, và chác chắn ngay trong đêm tiếp theo ngày
thứ nhất trong tuần (Lc 24, 1. 24, 13. 24, 36. 24, 50), nếu
ta nhớ lại khi các môn đệ làng Em-mau vào bàn ăn, thì
“trời đã muộn “ (Lc 24, 29), và các ông phải đi bộ
khoảng 12 cây số trong “hai tiếng đồng hồ “ (Lc 24,
13) để trở lại Giêsusalem. Còn Đức Giêsu đã mất giờ
giải thích Lề luật, các ngôn sứ và Thánh Vịnh liên hệ
đến Người, với các môn đệ (Lc 24, 44) ngay chiều Phục
sinh...
Trước
khi dẫn họ đến Bê-tha-ni-a, ở đó Người được đem
về trời (Lc 24, 50). Trái lại, trong Công vụ Tông đồ,
cũng chính Luca xác định biến cố Thăng Thiên vào lúc
kết thúc “bốn mươi ngày” (Cv 1,3). Ngoài những tưởng
tượng có tính cách ấu trĩ mà ta cần phải từ bỏ,
hiển nhiên là giữa những lần “hiện ra” khác nhau của
Người, Đức Giêsu không lánh ẩn trong một khu phố tại
Giêrusalem, trong một nơi bí mật, để chờ đợi “ên”
trời về cùng Chúa Cha! Thực sự, Phục sinh, Thăng Thiên
và Hiện xuống, là ba khuôn mặt của cùng một “mầu
nhiệm” duy nhất: bởi vì vừa sống lại, thì Đức
Giêsu đã bước vào vinh quang của Chúa Cha và ngự bên
hữu Người “ theo kiểu nói của khải huyền. Đặc
biệt, Luca nhấn mạnh đến sự kiện Đức Giêsu “rời
bỏ “ những kẻ mà Ngài đã cho họ được gặp mặt...
Người biến mất trước cái nhìn của họ (Lc 24, 31 - 24,
51).
Như
thế, Thăng thiên vào chiều tối Phục sinh xảy ra để
gắn liền cuộc sống nhân loại của Đức Giêsu với
việc tôn vinh quyền năng Thiên Chúa của Người…và đó
là trang cuối cùng của Tin Mùng!
Trong
khi biến cố Thăng Thiên vào “ngày thứ bốn mươi” để
bắt đầu cuộc sống mới của Đức Giêsu vượt qua
không gian và thời gian... thì cũng là lúc khởi sự trang
đầu tiên của Công vụ Tông đồ! Kết thúc thời gian
của Đức Giêsu Nadarét...là bắt đầu thời kỳ của
Giáo hội.
Rồi
Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói
với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các
sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều
phải được ứng nghiệm”. Bấy giờ Người mở trí cho
các ông hiểu Kinh Thánh và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép
rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba
từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao
giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ
sám hối để được ơn tha tội”.
Đức
Giêsu nói: “Khi Thầy còn ở với anh em”.
Điều đó chứng tỏ rằng Người không còn ở trái đất
như trước nữa. Thăng thiên sắp tới chỉ lặp lại
những gì đã diễn ra do biến cố Phục sinh: từ đây trở
đi, sự hiện diện của Chúa Phục sinh, dù có thực sự
đi nữa, thì cùng ở trong một trạng thái khác... Người
đã bước vào thế giới của Thiên Chúa rồi.
“Việc
ứng nghiệm... và hiểu biết Kinh Thánh!”.
Đức tin là phương thế duy nhất để đạt được “thế
giới của 'Thiên Chúa” mà Đức Giêsu đang hiện diện,
vì giờ đây Người “không còn ở với chúng ta theo cùng
một cách thức như trước nữa”. Ngay trên bước đường
đi đến Em-mau, Đức Giêsu đã khiển trách hai người
đồng hành với Người là những kẻ tối dạ, những
lòng chậm tin” (Lc 24, 25).
“Như
sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh đã
chép về Thầy”.
Chỉ khi sống lại, Người mới giải thích Kinh thánh:
thực vậy, cần phải “chết đi sống lại”, để khi
người ta đọc lại Kinh Thánh, mới có thể nhận ra điều
đó đã được loan báo. Do đó, trong đời sống của
chúng ta, có một số những biến cố đột nhiên xảy
đến, soi sáng trở lại những sự việc, những lời nói
mà trước đó chúng ta chưa hiểu được cách sâu xa.
“Các
Thánh Vịnh”: Đức
Giêsu đã thuộc lòng và hằng ngày dùng Thánh vịnh để
cầu nguyện. Còn tôi thì sao? Liệu tôi có đủ độ nhớ
chỉ một Thánh Vịnh để cầu nguyện, nhất là một
trong những Thánh Vịnh nói về Đức Giêsu không?
Có
lời Kinh Thánh chép rằng: “Đấng Kitô phải chịu khổ
hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải
nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ
Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.
Chính anh em là chứng nhân của những điều này”.
Luca
nhấn mạnh đến sự kiện: chỉ nhờ biến cố Phục
sinh, các môn đệ mới hiểu được “những lời Kinh
Thánh chép”. Như thế, đời sống của riêng ta, đời
sống của mọi người, đời sống của những kẻ mà ta
vẫn tưởng rằng mình có tương quan thân mật nhất...
chỉ sáng tỏ trong ngày của Chúa. Đúng vậy, những biến
cố liên hệ đến cuộc đời của Đức Giêsu, trước
ngày đó, vẫn làm cho các môn đệ hoang mang, khó hiểu!
“Đau khổ” của Đức Giêsu trên thập giá, có vẻ như
một sự ngẫu nhiên, một tai nạn, một thất bại. Nhưng
giờ đây họ mới khám phá ra, đó là sự ứng nghiệm
chương trình mầu nhiệm của Chúa Cha: “Cần phải ứng
nghiệm không gì đã được Kinh Thánh báo trước... “.
Đó không phải là một định mệnh, cũng không phải là
một số mệnh nghiệt ngã và khắt khe... mà là một
chương trình yêu thương! Nhưng cho tới ngày đó, họ chưa
nhận ra. Giờ đây, họ sắp trở nên chứng nhân cho những
điều đó. “Ngày Phục sinh ngày dài nhất của thời
gian... “Ngày thứ nhất” đó sẽ kéo dài, tới vô tận!
Không có ngày nào khác như thế nửa. Ta hiểu ra rằng,
Luca đã muốn gom cách tiêu biểu để cả trong ngày duy
nhất đó, và ngày này sẽ được kéo dài qua đời sống
chứng tá của Giáo hội suốt dòng lịch sử. Hiện nay,
chúng ta có luôn là “nhân chứng” cho tình yêu cứu độ
của Thiên Chúa không? Đức Giêsu, trước thái độ kịch
liệt công phẫn của những người được coi là “sạch”
đã nghiêng về phứa những người Samari ngoại giáo...
những kẻ lạc đường, đĩ điếm, ngoại tình... những
kẻ dốt nát, bị nhóm Pharisêu và thông giỏi khinh bỉ...
những kẻ thông đồng với dân ngoại, những người thu
thuế cộng tác với đế quốc Rôma... mọi người nghèo
khổ bị xã hội ruồng bỏ, những kẻ thấp kém, bệnh
tật, phong cùi. Thay vì ra hình phạt của Thiên Chúa mà lề
luật đòi buộc, Đức Giêsu lại loan báo “ơn tha thứ”
không giới hạn, không loại trừ một người nào khỏi
ơn cứu độ phổ quát được cống hiến cho mọi người,
bắt đầu từ Giêrusalem”. Đúng vậy, Thiên Chúa là Cha
những người tội lỗi. Người tha thứ cho mọi người.
Và noi gương Thiên Chúa, ta cũng phải tha thứ cho mọi
người, ngay cả những kẻ thù của mình! Vì đã rao giảng
những điều như thế nên Đức Giêsu đã bị kết án và
bị đóng đinh như kẻ “phạm thượng”. Nhưng rõ ràng
việc sống lại minh chứng rằng, Ngài đã có lý. Những
người đại diện cho lề luật bị lên án. Đấng chịu
đóng đinh luôn sống động. Mọi điều Đức Giêsu đã
giảng dạy và hành động... sẽ tiếp tục và được
chính Thiên Chúa minh chính hóa.. “Anh ern sẽ là chứng
nhân! “.
Lạy
Chúa, Chúa đòi chúng con phải thay đổi trở về thế nào
đây? Thực sự, chúng con chưa làm chứng đầy đủ cho
tình yêu cứu độ phổ quát!
Và
đây chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã
hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận
được quyền năng từ trời cao ban xuống.
Họ rất
cần điều đó. Chúng ta cũng rất cần điều đó, cần
“quyền năng” không do ta, chứng từ trời cao ban xuống!
Bởi vì các môn đệ sắp phải sống và rao giảng trong
một thế giới, bề ngoài chưa có gì thay đổi cả: sự
dữ bạo lực, hận thù, chết chóc... độc ác, tà thuyết,
sai lầm, dốt nát, áp lực đủ thứ... vẫn còn tiếp
diễn.
Đấng
sẽ trao ban quyền năng đó... ở đây không nêu tên... bởi
vì, cũng như Chúa Cha “không ai trông thấy bao giờ.. và
khác với Đức Giêsu, Đấng là khuôn mặt hữu hình của
Thiên Chúa... Thần Khí không có dạng hình. Hay, đúng hơn
Ngài mang bộ mặt của ta, theo cách nói của Thánh Phaolô:
“Anh em là thân thể của Đức Kitô. Khi cây nến Phục
sinh được tắt đi vào Lễ Thăng Thiên, thì độ là lúc
các ngọn lửa được thắp sáng:để xâm chiếm mỗi
người môn đệ vào Lễ Hiện Xuống.
Sau
đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ
tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người
rời khỏi các ông và được lên trời.
Đó là
sự “rời khỏi”. Chỉ mình Luca sử dụng từ ngữ đây
ý nghĩa đó. So sánh với
cùng một trình thuật trong Công vụ Tông chúng ta nhận
thấy có nét giản dị hơn. Ở đây, không có yếu tố mô
tả nào, không có “đám mây” cũng không có hai Người
mặt áo trắng”. Không phải là Luca không hay biết tới
ngôn ngữ khải huyền. Trong một trình thuật khác, ông sẽ
sử dụng thứ ngôn ngữ này. Nhưng trong đoạn văn trên,
ông muốn tương đối hóa, đơn giản hóa nó.
Tất cả
đều rất bí mật, và chúng ta thử dõi theo Đức Giêsu
xem sao: “Người dẫn các ông... “, “Người giơ tay
chúc lành cho các ông”. “Người rời khỏi các ông để
trở về với Chúa Cha trên trời”.
Chưa
bao giờ Đức Giêsu đã “chúc lành” cho các tông đồ.
Nhưng đây là một cảnh từ biệt. Luca có ý nối kết
lại một truyền thống Kinh Thánh phong phú. Các nhân vật
quan trọng trong Kinh Thánh thường kết thúc đời mình
bằng một cử chỉ chúc lành cho những kẻ tiếp sau:
Giacóp (St 49), Môsê (Đnl 33), Đavit (1Sb 28-29). “Phép lành”
của Đức Giêsu là cử chỉ cuối cùng của Người. Một
cử chỉ mà Người sẽ không ngừng thể hiện, nhờ mỗi
linh mục, đại diện của Người, làm lại trên chúng ta
vào lúc chào tạm biệt trong Thánh lễ, bằng cách “giơ
tay lên” để chúc lành cho chúng ta nhân danh Ba Ngôi Thiên
Chúa.
Bấy
giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giênlsalem,
lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Đền thờ mà chúc
tụng Thiên Chúa.
Thật
là nghịch lý! Đức Giêsu rời khỏi họ, thế mà họ
không buồn, lại vui tươi. Cộng đoàn các môn đệ của
Đức Giêsu đã trở thành nhóm người “tôn thờ” Đức
Giêsu và cùng nhau “ca tụng Thiên Chúa”. Đức Giêsu ở
“trên trời”. Các môn đệ của Người ở “trong Đền
Thánh'. Đó chỉ là một biểu tượng... một sự đối
xứng. Một phụng tự mới.
23. Chú giải của Fiches Dominicales
“ CHÍNH
ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN”
VÀI
ĐLỂM CHÚ GIẢI:
1.
Đối với Đức Giêsu: hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua.
Trong
sách Công Vụ Tông đồ, chúng ta đã đọc thấy biến cố
Lên Trời xảy ra vào ngày thứ Bốn mươi sau Phục sinh.
Trái lại, trong sách Tin Mừng, Luca lại đặt biến cố
này vào ngay chiều ngày Phục sinh. Làm như thế Luca muốn
nêu bật tính thống nhất không thể tách biệt của mầu
nhiệm vượt Qua: biến cố Lên Trời biểu lộ vinh quang
của Đấng Phục sinh và quyền bá chủ thần linh của
Người. biến cố ấy đóng dấu ấn kết thúc cuộc đời
và Tin Mừng của Đức Giêsu bằng việc tôn phong thiên
quốc của Đấng Mêsia. Mâu thuẫn rõ ràng về thời gian
- điều hoàn toàn tương hợp với cách hành văn của thời
ấy - không nhằm mục tiêu nào khác hơn là phô bày tất
cả vẻ phong phú của biến cố cứu độ này.
Sau khi
tỏ mình cho các môn đệ nhận ra mình: “Nhìn chân tay
Thầy coi, chính Thầy đây mà” (c.39). Đức Giêsu mở tâm
hồn cho họ hiểu ý nghĩa của biến cố phục sinh: “Tất
cả những gì sách luật Môsê, sách các ngôn sứ và các
Thánh vịnh chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”
(c.44). Tất cả những gì các ông vừa trải qua cùng với
Người, đều hiện rõ ý nghĩa dưới ánh sáng của Thánh
Kinh, và chính Thánh Kinh được thực hiện hoàn hảo trong
mầu nhiệm Vượt Qua: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình
rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại rồi phải nhân
danh Người mà rao giảng cho muôn dân kêu gọi họ sám hối
để được ơn tha tội”.
Khi dẫn
các môn đệ tới tận Bêtania, giờ đây Đức Giêsu từ
biệt và chúc lành cho các ông là những người kế thừa
mình theo cách các thánh tổ phụ chúc lành cho các con vào
lúc lìa cõi thế..
Và đang
khi Ngươi được “đem lên trời” các môn đệ “phủ
phục bái lạy Người”, một cử chỉ tôn thờ chỉ dành
riêng cho Thiên Chúa mà thôi.
Mặc
dầu chia ly hoặc phải chia ly, nhưng tất cả mọi người
đều chấp nhận từ nay không còn được trông thấy, mà
chỉ sống bằng lòng tin nên các môn đệ cũng “lòng đầy
hoan hỉ”, “các ông trở lại Giêrusalem, ở trong Đền
thờ” - nơi mọi việc đã khởi đầu khi thiên thần báo
tin cho ông Dacaria – các ông “không ngớt chúc tụng
Thiên Chúa”.
Roland
Meynet quảng giải: “Các môn đệ xem thấy Đức Giêsu
lần cuối, cuộc chia ly thế là dứt khoát rồi. Tuy nhiên,
các ông không buồn sầu, ngược lại, các ông trở lại
Giêrusalem lòng đầy hoan hỉ. Chính là vì Thầy không đi
vào cõi chết như họ đã trông thấy ba ngày trước,
nhưng được đưa lên trời, đến cùng Chúa Cha. Các ông
bái lạy Người và không ngớt chúc tụng Thiên Chúa. Nếu
Đền thờ là nơi và là dấu chỉ sự hiện diện của
Thiên Chúa ở giữa dân Người, thì các ông biết rằng:
nếu các ông luôn ở lại trước mặt Đấng tối Cao, các
ông sẽ không phải xa cách Đấng vừa về với Ngài. Liệu
các ông có lòng đầy hoan hỉ như thế, nếu các ông
không tin chắc rằng Đức Giêsu luôn ở với các ông, mặc
dầu không trông thấy? Xem như nghịch lý: cuộc chia ly đối
với các ông lại trở thành dấu chỉ rằng Đức Giêsu
luôn ở bên các ông. (L’Evangile selon saint Luc, Cerf cuốn
2, trg 239).
2.
Đối với Hội Thánh: Khai mở một kỷ nguyên mới.
Kế
hoạch của Thiên Chúa được ghi trong Kinh Thánh không chấm
hết cùng với cái chết, phục sinh và lên trời vinh hiển
của Đức Glêsu, mà còn tiếp tục trong Hội Thánh. Sứ
điệp Tin Mừng được hoạch định “cho muôn dân”,
được rao giảng “bắt đầu từ Giêrusalem”.
“Anh
em là chứng nhân của những điều đó”. Đức Giêsu đã
tuyên bố với các môn đệ như vậy. Và trước khi lìa
bỏ các ông để “được đưa lên trời”, Người loan
báo cho các ông biết rằng, các ông sẽ “nhận được
quyền năng từ trời cao ban xuống”, quyền năng mà Cha
đã hứa, để hoàn thành sứ mạng vĩ đại vượt quá
sức riêng của các ông.
Một
giai đoạn lịch sử cứu độ được hoàn tất. Một kỷ
nguyên mới được chuẩn bị, kỷ nguyên đi gieo rắc
'I'in Mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng
trái đất. Công việc gieo trồng này sẽ bội thu, bởi vì
nó bắt rễ lừ những gì vừa hoàn thành lại Giêrusalem,
đó là việc “Đức Giêsu chịu khổ nạn, sống lại và
sự sám hối được rao giảng nhân danh Người để được
ơn tha tội”.
BÀI
ĐỌC THÊM:
1.
Loan báo Tin Mừng bằng lời nói và bằng hành động
(G.
Bessiere: ‘Dieu si proche’ Năm C, DDB, trg 68-69).
Tận
cùng lại là một khởi đầu.
Mọi sự
đều xảy ra tại Giêrusalem.
Các môn
đệ đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức
Giêsu, Người đã phục sinh. Các ông đã bắt đầu hiểu
rằng sự việc phải đi tới đích điểm đó và phải
được hoàn thành cách vinh quang. “Cần phải...”. Đây
không phải là do định mệnh an bài. Cụm từ đó chỉ có
ý nói rằng mọi biến cố tìm được ý nghĩa trong Thiên
Chúa và chúng là tiếp nối của một quá khứ cao quý
nhất. Một nụ hoa hé nở, một việc kỳ diệu Thiên Chúa
làm ở giữa dân Người.
Đức
Giêsu được “đưa lên trời”. Những lời trăn trối
cuối cùng của Người là lệnh “sai đi”, và là lời
loan báo cho họ một sức mạnh từ trời cao, đó là Thần
Khí được ban xuống, Thần Khí mà các Ngôn sứ đã loan
báo. Từ nay, những con người ấy sẽ mang trên tay và
trong trái tim ơn tái sinh. Các ông sẽ làm lây lan ơn Thiên
Chúa, biến đổi cả nhân loại. Đức Giêsu đi về cùng
Cha Người, cốt để các ông ra đi đến tận cùng trái
đất.
Cử chỉ
cuối cùng của Đức Giêsu thâu tóm cả cuộc đời của
Đức Giêsu trên trần gian: “Đang khi giơ tay chúc lành
cho các ông, thì Người lìa các ông...”. Đức Giêsu lên
trời đang khi chúc lành, hình ảnh cuối cùng đó sẽ còn
mãi: bàn tay đang chúc phúc.
Còn các
ông “lòng đầy hoan hỉ” và “các ông không ngớt chúc
tụng Thiên Chúa trong đền thờ”. Giữa trời và đất,
giữa đất với trời, lời chúc phúc được giao lưu.
Giờ
đây các môn đệ Đức Giêsu - những môn đệ thời xưa
và những môn đệ thời nay - cần phải loan báo Tin Mừng
cho đến tận cùng thế giới và tận cùng lịch sử, bằng
lời nói và bằng hành động. Phải không ngớt chúc tụng.
2.
Được sai đi truyền giáo thế chân các tông đồ.
Đức
Giêsu đã lên trời thế nào? Ta hãy nghe thánh Luca tường
thuật thật giản dị: “Đức Giêsu lìa khỏi các môn đệ
và được đưa lên trời”.
Có điều
lạ là các môn đệ không biến cuộc chia ly thành một
tấn bi kịch. Tác giả thuật lại rằng các ông trở lại
Giêrusalem lòng đầy hoan hỉ. Dường như các ông đã được
soi sáng cho hiểu rằng: Đức Giêsu đã hoàn thành trọn
vẹn sứ mạng cứu thế của Người. Từ nay đến lượt
các ông có nhiệm vụ làm chứng.
Biến
cố Lên Trời cho thấy công trình cứu độ này đã hoàn
thành; mọi điều Thánh Kinh loan báo đều là lời của
Thiên Chúa. Tất cả đều đã được thực hiện, cả đến
việc phục sinh. Từ nay, làm cho thế giới sám hối trở
lại.
Biến
cố Lên Trời chứng tỏ rằng Đức Giêsu chuyển giao
nhiệm vụ cho các chứng nhân. Giờ đây đến lượt các
môn các đệ hoạt động. Họ có nhiệm vụ làm cho kế
hoạch đã được hoàn thành nơi Đức Giêsu được tỏ
hiện cho mọi dân mọi nước.
Đồng
thời biến cố lên Trời cũng còn la một lời hứa. Một
sức mạnh nội tâm sẽ được ban xuống cho các chứng
nhân của Đức Giêsu. Một sức mạnh nội tâm sẽ được
ban xuống cho họ từ trời cao. Sức mạnh ấy củng cố
trí tuệ và tâm hồn các ông, sẽ biến các ông nên can
đảm.
Biến
cố Lên trời là lơi chúc phúc từ trời. Một phúc lành
làm cho con người cảm nghiệm năng lực của Thiên Chúa
thấm nhập vào mình, cảm thấy mình được tôn trọng
trong tự do và có khả năng sáng tạo để đạt kết quả.
Biến
cố Lên Trời còn được tiếp nối bằng lời cầu nguyện
vui tươi và tinh thần hoan hỉ. Các môn đệ không bị mồ
côi chút nào. Các ông có Chúa Thánh Thần ở cùng. Các
ông ở nhà của Người là Đền thờ. Các ông ca tụng
những thiện hảo của Thiên Chúa. Các ông chúc tụng
Người.
Đăng nhận xét